Nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ violin bậc thầy người Ý Arcangelo Corelli đã có ảnh hưởng lớn đến những đồng nghiệp cùng thời và hậu thế. Ông sinh ra ở Fusignano, Ý, vào 17/2/1653, đủ một thế hệ trước Bach và Handel đều sinh năm 1685. Ông học ở Bologna, một trung tâm âm nhạc nổi tiếng, rồi tự củng cố kiến thức tại Rome vào những năm 1670. Đến năm 1679, nữ hoàng Thụy Điển Christina sau khi thoái vị đã đến cư trú tại Rome rồi lập ra một học viện văn học sau trở thành Học viện Arcadian. Năm 1649, nhà triết học và toán học nổi tiếng người Pháp René Descartes đã được mời đến làm việc cho Nữ hoàng khi đang tại vị. Thật bi thương là Descartes đã không chịu nổi giá rét và lịch làm việc từ quá sớm nên đã qua đời chỉ sau vài tháng. Nhờ những thành công quốc tế ngày càng tăng, Corelli dễ dàng nhận được sự hỗ trợ của hàng loạt những người bảo trợ có ảnh hưởng trong đó có nũ hoàng Christina. Lịch sử đã ghi nhận ông với những danh hiệu "Người sáng lập ra kỹ thuật Violin hiện đại", "Nghệ sĩ violin vĩ đại đầu tiên trên thế giới" và "Cha đẻ của Concerto Grosso." Những đóng góp của ông có thể được chia theo ba lĩnh vực: nghệ sĩ violin, nhà soạn nhạc và nhạc sư. Chính kỹ năng chơi loại nhạc cụ mới gọi là violin và những chuyến lưu diễn rộng khắp và rất thành công của ông ở châu Âu đã giúp ông có được vị trí nổi bật trong đời sống âm nhạc đương thời. Sự nổi tiếng của ông với tư cách nghệ sĩ violin không khác gì của N. Paganini hơn 200 năm sau. Tuy nhiên, Corelli không phải là một nghệ sĩ điêu luyện theo nghĩa đương đại. Vào thời đó, chỉ riêng tiếng đàn đẹp đã làm nổi bật những nghệ sĩ violin lớn. Mà chất lượng tiếng đàn của Corelli đáng chú ý nhất ở châu Âu hoàn toàn theo tường thuật. Ngoài ra, Corelli là người đầu tiên thiết lập các yếu tố cơ bản của kỹ thuật diễn tấu violin. Ông và A Vivaldi được coi là hai ông tổ của chuyên ngành biểu diễn violin.
Sự nổi tiếng của Corelli trên cương vị nghệ sĩ violin cũng sánh ngang với thành công trên cương vị nhà soạn nhạc. Âm nhạc của ông đã được biểu diễn và được kính trọng trên khắp châu Âu. Các sáng tác phổ biến nhất của ông là khí nhạc. Có điều đáng lưu ý là sự thể hiện lòng tôn kính đến Corelli vĩ đại là một mục đích quan trọng trong chuyến du lịch Ý của chàng trai trẻ Handel. Tuy nhiên, số lượng sáng tác của Corelli khá nhỏ. Tất cả sáng tác của ông nằm trong 6 Opus:
Opus 1: 12 sonate da chiesa (12 trio sonata nhà thờ cho 2 violin và bè trì tục) -Rome 1681 https://open.spotify.com/album/4CduyO5tTYdq3tBdUWoLMO
...
Opus 2: 12 sonate da camera (12 trio sonata thính phòng cho 2 violin và bè continuo) -Rome 1685.
Opus 3: 12 sonate da chiesa (12 trio sonata nhà thờ cho 2 violin và bè continuo ) - Rome 1689.
Opus 4: 12 sonate da camera (12 trio sonata thính phòng cho 2 violin và bè continuo )-Rome 1694.
Opus 5: 12 Suonati a violino e violone o cimbalo (6 trio sonata cho 2 violin và bè continuo, 6 trio sonata cho 2 violin và cembalo)- Rome 1700. Sonata cuối nổi tiếng nhất gồm các biến khúc trên chủ đề La Folia. Chủ đề này được nhiều nhà soạn nhạc thời Lãng mạn phát triển thành các biến khúc của riêng họ, nổi tiếng nhất là Các biến khúc của S. Rachmaninoff.
Opus 6: 12 concerti grossi (8 concerto nhà thờ và 4 concerto thính phòng cho dàn nhạc 2 violin và cello, dàn dây và bè continuo) – viết 1680 Rome, xuất bản 1714 Amsterdam.
Một trong những học trò nổi tiếng của Corelli, Geminiani, đã suy nghĩ rất nhiều về các Sonata Opus 5, đến mức ông đã chuyển soạn tất cả các tác phẩm đó thành các Concerto Grosso. Tuy nhiên, chính các Concerto Grosso Opus 6 của ông, Corelli đã đạt đến đỉnh cao sáng tạo của mình và cũng là đỉnh cao cho những đóng góp âm nhạc của ông.
Mặc dù Corelli không phải là người phát minh ra nguyên tắc của Concerto Grosso, nhưng chính ông là người đã chứng minh tiềm năng của hình thức này bằng cách phổ biến nó và viết bản nhạc tuyệt vời đầu tiên trong cho hình thức này. Thông qua những nỗ lực của ông, hình thức này đã đạt được vị trí ưu việt trong thời kỳ baroque như J. Haydn đã làm với thể loại giao hưởng. Nếu không có những khuôn mẫu thành công của Corelli, thì Vivaldi, Handel và Bach đã không thể mang lại cho chúng ta những kiệt tác Concerto Grosso của họ.
Hình thức Concerto Grosso được xây dựng trên nguyên tắc tương phản hai nhóm nhạc cụ có quy mô khác nhau. Trong các Concerto Grosso của Corelli, nhóm nhỏ hơn gồm hai violin và một cello, và nhóm lớn hơn là một dàn nhạc dây. Các chỉ dẫn về cường độ trong tất cả các bản nhạc thời kỳ này đều dựa trên nguyên tắc từng bậc; mạnh dần và nhẹ dần chưa được biết đến, sự tương phản giữa mạnh và nhẹ và giữa các nhóm đàn dây lớn và nhỏ tạo nên sự đa dạng về cường độ của các bản nhạc.
Trong tất cả các sáng tác của ông, chính Opus 6 mà Corelli đã làm việc siêng năng và tận tụy nhất. Mặc dù sinh thời, ông không cho phép xuất bản chúng, nhưng Op. 6 vẫn là một trong những chùm nhạc nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Thời gian sáng tác không xác định được vì Corelli đã dành nhiều năm cuộc đời mình để viết đi viết lại các bản nhạc này, từ khi còn ở tuổi đôi mươi.
Trio Sonata, một sáng tác khí nhạc thường đòi hỏi có bốn nhạc công thị tấu từ những cuốn vở ba bè, được coi là có tầm quan trọng to lớn trong âm nhạc baroque, phát triển từ đầu thời kỳ ở đầu thế kỷ XVII cho đến khi bừng nở ở cuối thời kỳ trong các tác phẩm của Handel, Vivaldi, Johann Sebastian Bach và những người cùng thời với họ, đã thay đổi những thành tựu trước đó của Arcangelo Corelli trong hình thức này. Nhạc cụ của trio sonata, có thể vì lý do thương mại, cho phép một số lựa chọn tự do. Tuy nhiên, cách sắp xếp phổ biến nhất đã hình thành là hai violin và cello, cùng một harpsichord hoặc một nhạc cụ chơi hợp âm để tạo hòa âm.
Trio sonata là nền móng của concerto grosso, concerto khí nhạc tạo tương phản giữa một nhóm concerto nhỏ gồm bốn nhạc cụ của trio sonata cùng nguyên dàn nhạc dây, có thể tăng gấp đôi cho các đoạn cường độ mạnh hơn.
Việc đề tặng các sonata của Corelli đánh dấu những tiến triển của ông trong số những nhà bảo trợ lớn của Rome. Ông đã đề tặng bộ 12 Trio Sonata Nhà thờ đầu tiên của mình, Opus 1, xuất bản năm 1681, cho nữ hoàng Christina, mô tả tác phẩm là thành quả đầu tiên trong quá trình nghiên cứu của mình. Bộ Trio Sonata thứ hai của ông, Các Sonata Thính phòng Opus 2, được xuất bản vào năm 1685 đề tặng cho người bảo trợ mới, Hồng y Pamphili, người mà ông đã phục vụ vào năm 1687 cùng nghệ sĩ violin Fornari và nghệ sĩ cello Lulier. Bộ Trio sonata thứ ba, một chùm 12 bản Sonata Nhà thờ thứ hai, Opus 3, được phát hành vào năm 1689, với đề tặng cho công tước Francesco II của Modena, và tập cuối cùng gồm 12 Sonata Thính phòng, Opus 4, được xuất bản vào năm 1694 với đề tặng cho người bảo trợ mới, Hồng y Ottoboni, cháu trai trẻ của Giáo hoàng Alexander VIII, sau khi Hồng y Pamphili bị chuyển đến Bologna vào năm 1690. Hồng y Ottoboni trở thành nhà bảo trợ chính của Corelli, người đã giúp Corelli có thể theo đuổi sự nghiệp của mình mà không phải lo lắng về tiền bạc, và dường như chưa có nhà soạn nhạc nào có được một người bảo trợ nhiệt tình hoặc trí tuệ hơn.
Thành tựu của Corelli về mặt đào tạo tiếp tục thành công xuất sắc. Trong số nhiều học trò của ông không chỉ có Geminiani mà có cả Antonio Vivaldi nổi tiếng. Chính Vivaldi là người kế tục Corelli ở cương vị nhà soạn nhạc viết các Concerto Grosso tuyệt vời và có ảnh hưởng lớn đến âm nhạc của J. S. Bach.
Corelli đã chiếm một vị trí hàng đầu trong đời sống âm nhạc của Rome trong khoảng ba mươi năm, biểu diễn như một nghệ sĩ violin và chỉ đạo các buổi biểu diễn thường xuyên vào những sự kiện công cộng quan trọng nhất. Phong cách sáng tác của ông đã được nhiều nhà soạn nhạc học tập và trở thành mẫu mực, cả bằng cách xuất bản lẫn trình diễn ở Rome trong suốt đời ông.
Corelli qua đời như một người giàu có vào ngày 19 tháng 1 năm 1713 tại Rome khi ông bước sang tuổi 59. Nhưng trong một thời gian dài trước khi qua đời, ông đã có một vị trí trong số những nhạc sĩ bất hủ của mọi thời đại và vị trí cao quý đó vẫn được duy trì đến ngày nay.
14/2/2022
Trịnh Minh Cường dịch từ website baroquemusic.org
Nhận xét
Đăng nhận xét