Với Chopin, chơi piano không chỉ
là một con đường đến thành công cá nhân mà còn là một sứ mệnh quốc gia theo tiếng
gọi từ tâm khảm. Anh đã quyết định bản thân trở thành “Ca sĩ của nghệ thuật
Ba Lan” và sử dụng mọi thế mạnh của mình vì lợi ích của người Ba Lan. Sáng
tác đầu tay của Chopin là một bản polonaise viết khi lên bảy đã được xuất bản.
Trong đời sống âm nhạc của Warsaw, anh chắc chắn đã làm quen với các kinh điển
của Vienna, opera Pháp và Ý. Anh cũng đã nghe những sáng tác mới nhất của John
Field và đã gặp gỡ làm quen với Johann
Nepomuk Hummel. Nhưng anh có được những ấn tượng âm nhạc mang tính quyết định cho
mình trong kỳ nghỉ ở nông thôn. Anh đã hấp thụ tối đa chất liệu đa dạng của âm
nhạc dân gian Ba Lan với tiết tấu sôi động, giai điệu đong đưa, hòa âm và các
nét tô điểm đặc biệt của các vũ điệu dân gian Kujawiak, Mazurek và Oberek. Văn
hóa dân gian Ba Lan đã trở thành âm nhạc mẹ đẻ của anh.
Mong muốn trở thành một nhà soạn
nhạc dân tộc Ba Lan của Chopin không chỉ nhận được sự cổ vũ từ thầy Josef
Elsner mà còn từ nhà thơ cách mạng Adam Mickiewicz cùng những đại diện kiên định
khác của phong trào giải phóng dân tộc Ba Lan. Ngay từ khi còn nhỏ, sự nhiệt
thành của họ đã cuốn hút Chopin và anh
nhận thức rõ mong muốn trở thành đại diện âm nhạc cho người Ba Lan. Người Ba
Lan có khát vọng giải phóng dân tộc đặc biệt mạnh mẽ vì họ phải chịu xiềng xích
từ ba phía: chế độ Sa hoàng ở phía đông, Habsburg ở phía nam và Liên bang Đức ở
phía tây. Họ đã phải chịu sự đè nén của Liên minh Thần Thánh phục hồi, sự đánh
cắp độc lập và sự đàn áp văn hóa một cách tàn bạo từ nước ngoài. Ngay sau khi
Chopin rời khỏi Warsaw, cuộc nổi dậy trên toàn quốc đã nổ ra vào năm 1831nhưng
đã bị quân đội Sa hoàng vùi dập trong biển máu. Ở Paris Chopin sống trong đau đớn,
cô đơn và hiểu rằng cuộc giải phóng quê hương là một tương lai vô định. Hơn nữa
anh còn bị một căn bệnh phổi thâm hiểm đeo đẳng. Anh chỉ còn phó thác những cảm
xúc sâu sắc nhất của mình vào một vài người bạn tốt và cây đàn piano.
Năm 1829 khi mười chín tuổi,
Chopin đã sáng tác bản concerto đầu
tiên - Concerto Fa thứ.
Tuy nhiên, anh đã xuất bản nó với số hợp tuyển(opus - Op.) 21- muộn hơn bản concerto Mi thứ được hoàn thành vào năm
1830 và xuất bản năm 1833 được xếp vào hợp tuyển 11. Do đó, concerto Fa thứ đã
đi vào văn bản âm nhạc với tên gọi Piano Concerto số 2 và bản concerto Mi thứ là Piano Concerto số 1 dù nó là bản thứ hai theo trình
tự thời gian.
CONCERTO SỐ 1 MI THỨ OP. 11
Concerto Mi thứ vẫn chưa có bóng
dáng của cuộc đời tha hương mà vẫn tràn ngập khát khao hành động, tự do và chất
thơ chân thành của tuổi trẻ. Chương đầu tiên - Allegro maestoso(nhanh
trang trọng) bắt đầu "một cách quả quyết" với một đoạn giới thiệu đầy
tự hào, rạng rỡ theo tiết tấu mazurka. Chương này được viết theo hình thức
sonata có hai ý chính được dàn nhạc giới thiệu đầu tiên: chủ đề thứ nhất giọng
Mi thứ nhẹ nhàng có phần u sầu nhưng tao nhã, chủ đề thứ hai giọng Mi trưởng "như
hát" đầy cảm xúc, khao khát, cả hai đều được bè violin hát lên và không có
sự tương phản. Chủ đề của phần giới thiệu kết thúc phần trình bày theo chủ đề.
Phần trình bày này được lặp lại với
sự xuất hiện của bè piano. Với sự hỗ trợ về âm sắc của bè dàn nhạc, bè piano cất
tiếng hát giai điệu đầy mê hoặc được mở rộng khi là những nốt tô điểm tinh tế,
khi thì nhấn mạnh một cách kịch tính trong những sắc thái mới mẻ. Trong quá
trình phát triển, những nốt tô điểm của bè piano càng rực rỡ thêm. Phần tóm tắt
từ chủ đề thứ hai giọng Sol trưởng dẫn đến một đoạn kết rực rỡ được chi phối bởi
nhạc tố mazurka đầy tự hào của phần giới thiệu. Sự tổng hòa giữa khả năng hát
xướng trên đàn và các nốt hoa mỹ là một đặc trưng cho các sáng tác của Chopin bắt
nguồn gốc từ âm nhạc dân gian Ba Lan. Với những đặc trưng về âm thanh của cây
đàn piano, ngay từ đầu Chopin đã phát triển nó thành một ngôn ngữ rất riêng và
độc đáo với khả năng biểu cảm đầy chất thơ và sự rực rỡ mê hoặc.
Chương thứ hai Romance(khúc
tình ca) như một bản dạ khúc dài. Trong bức thư gửi người bạn Tytus
Wojciechowski, Chopin đã viết: “Tôi không có ý định viết chương Adagio của bản
concerto mới giọng Mi trưởng theo kiểu mạnh mẽ mà phải lãng mạn, u sầu. Nó nên
tạo ấn tượng về tình yêu với nơi lưu giữ hàng ngàn kỷ niệm thân thương. Nó phải
như một giấc mơ dưới ánh trăng trong mùa xuân tươi đẹp. Đó là lý do tại sao tôi
để bè violin đệm cùng sordino(bộ phận để giảm âm lượng).” Những đoạn piano tinh tế có vẻ đẹp độc đáo rất liền tiếng và thật
nhẹ nhàng xoay quanh chủ đề tình ca được dàn nhạc đệm vào đoạn cuối.
Chương kết là một khúc Rondo sôi động
theo tiết tấu của Krakowiak, một điệu nhảy dân gian sôi động của vùng Krakow, Ba Lan. Nhịp độ nhanh của điệu
nhảy tạo nên sự đa dạng bằng nững cú đảo phách. Trong các sáng tác của Chopin,
chủ đề Krakowiak sôi động thường xuất hiện với những biến tấu khác nhau về tiết
tấu và giai điệu bất ngờ. Cuối chương đạt đến cao trào rực rỡ với những đoạn chạy
của bè piano tràn ngập niềm vui sống.
CONCERTO
SỐ 2 FA THỨ OP. 21
Mặc dù được
xuất bản sau, nhưng Piano Concerto Fa thứ mới thực sự là bản concerto đầu tiên
của Chopin. Anh hoàn thành concerto này trước khi anh tốt nghiệp chương trình học
chính thức của mình. Trong buổi ra mắt tác phẩm vào ngày 17 tháng 3 năm 1830 tại
Warsaw anh đã chơi bè độc tấu. Đó là buổi
hòa nhạc đầu tiên trong chỗi ba buổi hòa nhạc của anh ở Warsaw trong năm đó. Còn
buổi hòa nhạc thứ ba vào ngày 11 tháng 10 năm 1830 thực ra là buổi biểu diễn
"chia tay" quê hương như kể trên. Trong một bức thư gửi cho một người bạn,
Chopin thú nhận rằng chương thứ hai bản concerto thứ 2 được lấy cảm hứng từ người
bạn học Konstancja Gladkowska, một giọng nữ cao 19 tuổi.
“Có lẽ là
do tôi không gặp may,” anh viết, “tôi đã gặp được người trong mộng của mình và
đã tận tụy phục vụ nàng trong sáu tháng mà tuyệt nhiên không thổ lộ tâm can với
nàng. Tôi mơ về nàng và nàng đã truyền cảm hứng để tôi viết chương Adagio
cho bản Concerto Fa thứ của tôi và sáng nay, bản valse nhỏ mà tôi gửi cho cậu đây
- bản valse Si thứ, Op. 69 số 2 đã ra đời.
Trong đó tôi kể lại cho cây đàn piano những gì tôi đã tâm sự với cậu.”
Concerto
cung Fa thứ kết hợp cấu trúc concerto thông thường với những ảnh hưởng từ
“phong cách chói sáng” được các nghệ sĩ piano điêu luyện thời đó phổ biến khắp
châu Âu, và những suy ngẫm âm nhạc sâu sắc của nhà soạn nhạc về quê hương Ba
Lan. Chương đầu tiên Maestoso giới thiệu một phần mở đầu đơn giản nhưng
thanh nhã cho dàn nhạc và không cố trở
thành một đối tác không thể thiếu trong cuộc đàm thoại âm nhạc này. Thay vào
đó, dàn nhạc nhẹ nhàng hỗ trợ bè piano trong suốt tiến trình đảm bảo một nền tảng
dàn nhạc hiệu quả và phù hợp. Sự sáng tạo giai điệu của Chopin thể hiện trong
bè piano khi nghệ sĩ độc tấu lặp lại các chủ đề chính trước khi giới thiệu các
âm hình và các nốt hoa mỹ điêu luyện. Chương nhạc đầy tính ngẫu hứng dần dần
xây dựng một cao trào của dàn nhạc. Những sự trau chuốt và lặp lại trữ tình sâu
sắc thể hiện trong bè độc tấu trong sáng và lấp lánh điểm xuyết những nét chấm
phá màu sắc của dàn nhạc. Các nhà phê bình gọi chương Larghetto này là
“một bản giao hưởng thơ tinh tế, trong đó những cảm xúc cao độ được đặt bên nhau
một cách khéo léo.” Thực sự chương này có một giai điệu vừa có vai trò trữ
tình, kịch tính vừa có vai trò cá nhân như chúng ta đã thấy.
Chương kết
Allegro đưa ra đầy đủ bằng chứng về khả năng sáng tác piano tuyệt vời của
Chopin với sự đa dạng, phong phú dường như vô tận của sự sáng tạo giai điệu, tất
cả đều đạt đến tột đỉnh trong màn trình diễn pháo hoa của sự điêu luyện trong
đoạn Coda(đoạn kết).
Có thể nghĩ
rằng loạt hòa nhạc cuối cùng của Chopin ở Warsaw diễn ra với sự quyến rũ của
Konstancja Gladkowska, "người đẹp tóc vàng mắt xanh với chất giọng đẹp."
Báo chí đương thời mô tả cô "sở hữu một thân hình sung sức và cân đối với
chất giọng lộng lẫy," người đã nhận được học bổng của chính phủ ở tuổi mười
sáu. Cô chắc chắn rất nổi tiếng, thậm chí có thể nói là rất được ngưỡng mộ. Xuất
hiện trong “Buổi hòa nhạc chia tay”, Chopin mô tả cô “mặc đồ trắng rất đẹp với
bông hồng cài trên tóc… Nàng đã hát khúc cavatina từ vở opera Người Đàn bà
bên Hồ của Rossini khi nàng chưa từng hát bất cứ bài nào trừ aria trong vở
Agnese của Paer. Bạn phải biết rằng trong ‘Oh, quante lagrime per te versai.’ nàng
hát từ ‘tutto desto’ ở nốt Xi trầm nhất tuyệt
vời đến mức Zieliński (một người quen) cho rằng chỉ riêng nốt Xi đó đã đáng giá
cả nghìn ducat.”
Trong dư
âm của buổi hòa nhạc này, Konstancja và Chopin đã trao đổi nhẫn, tuy nhiên
không có bằng chứng nào cho thấy hành động này tượng trưng cho một lễ đính hôn.
Khi lên đường, Chopin đã viết: "đã mua được va li cho chuyến đi, đã hiệu
đính tổng phổ, đã viền khăn tay... Không còn gì ngoài lời tạm biệt, và buồn nhất."
Tuy nhiên, Chopin đã sắp xếp để trao đổi thư từ với Konstancja qua người bạn
Jan Matuszyński đang học y tại trường đại học đã đồng ý làm trung gian. Chopin
thậm chí còn muốn "tro cốt của mình được đặt dưới chân nàng", và khi
cô không trả lời, anh đã ghen tuông điên cuồng. “Đầu tôi muốn vỡ tung khi nghĩ
rằng nàng có thể quên tôi! Những gã đó! Gresser! Bezobrazow! Pisarzewski! Quá sức
chịu đựng của tôi. Hôm nay tôi cảm thấy mình như Othello!”
Ngày 25
tháng 10 Konstancja đã viết trong album lưu bút của Chopin, chỉ hai tuần sau buổi
hòa nhạc chia tay,
“Em xin lỗi,
số phận trớ trêu,
Nhưng ta
đành đầu hàng thôi.
Nhưng hãy
nhớ, khi ra đi
ở Ba Lan,
mọi người yêu anh. K.G.”
Và cô viết
thêm:“ở những nơi xa lạ, có thể người ta trân trọng và thưởng cho anh nhiều hơn,
nhưng họ không thể yêu anh nhiều hơn thế.” Cô không bao giờ thấy những lời
Chopin viết bằng bút chì sau khi anh rời Ba Lan và cô đã kết hôn: “Ồ có đấy, họ
có thể!”
Độ tuổi
mười chín đôi mươi là độ tuổi đang trên chặng đường học tập với tính cách mới bắt đầu hình
thành, nhưng
hai piano concerto của
Chopin được viết vào độ tuổi đó đã bước vào kho tàng âm nhạc thế giới như những kiệt tác trưởng thành. Hai
kiệt tác này có vị trí hàng đầu trong nhạc mục tiêu chuẩn của các nghệ sĩ piano từ
lúc chúng được
xuất bản lần đầu đến nay.
2/10/2024
Trịnh Minh Cường tổng hợp
Nhận xét
Đăng nhận xét