Chuyển đến nội dung chính

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ.

1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thành danh: Henri Vieuxtemps(1820-1881, bậc thầy  lớn của trường phái violin Pháp – Bỉ), Franz Lachner(1803-1890), Eduard Marxsen (1806-1887, thầy của Johannes Brahms và được người học trò nổi tiếng đề tặng piano concerto số 2), Johann Nepomuk Fuchs(1842-1899 là người đóng vai trò quan trọng cho việc xuất bản toàn bộ tác phẩm của F. Schubert), Béla Kéler(1820-1882, người nổi tiếng với tiểu phẩm Erinnerung an Bartfeld phát triển từ  một giai điệu dân gian ở hạt Sáros. Vì nghĩ rằng đây là một làn điệu dân gian, Johannes Brahms đã soạn một phần của bản nhạc này thành Vũ khúc Hungary số 5 nổi tiếng), Sigismond Thalberg(1812-1871, một trong những nghệ sĩ piano lỗi lạc nhất của thế kỷ XIX), Kornelije Stanković(1831-1865 người đặt nền móng cho âm nhạc Serbia), và nổi tiếng hơn cả là Franz Schubert và Anton Bruckner. 

Sechter có phương pháp giảng dạy nghiêm ngặt. Ví dụ, ông cấm Bruckner viết bất kỳ tác phẩm gốc nào trong khi học đối vị. Học giả Robert Simpson tin rằng “Sechter đã vô tình tạo ra tính độc đáo của Bruckner bằng cách khăng khăng dồn nén nó cho đến khi không thể giữ được nữa.” Sechter đã dạy Bruckner qua thư từ năm 1855 đến 1861 và coi Bruckner là học trò cưng nhất của mình. Khi Bruckner tốt nghiệp, Sechter đã viết một fugue đề tặng học trò như một lời chúc mừng. Về lý luận, Sechter đã viết chuyên luận ba tập Die Grundsätze der musikalischen Komposition(nguyên tắc sáng tác âm nhạc), một tác phẩm có tầm ảnh hưởng đến nhiều nhà lý luận sau này. 

2. Antonio Salieri (1750-1825) sinh ra ở Legnago, phía nam Verona, Cộng hòa Venice. Ông là nhà soạn nhạc quan trọng trong sự phát triển của opera và có ảnh hưởng lớn đến các nhà soạn nhạc cuối thế kỷ XVIII. Ông học Florian Leopold Gassmann(1729-1774) và là người đỡ đầu bậc thầy opera Christoph Willibald Gluck(1714-1787). Đã có những kết tội vô căn cứ rằng ông đầu độc Mozart vì ghen tỵ với tài năng của đồng nghiệp trẻ. Nhưng thực tế, Mozart ghen tỵ với ông hợp lý hơn vì nhà soạn nhạc trẻ phải trầy trật để kiếm một công việc phù hợp thì Salieri đã rất nổi tiếng nên có nhiều nhạc sĩ trẻ xin theo học và không ít đã thành danh. Đó là các nhạc sĩ Marianna Auenbrugger , Antonio Casimir Cartellieri, Johann Nepomuk Hummel(pianist điêu luyện và là học trò cưng của W. A. Mozart), Franz Xaver Wolfgang Mozart(con trai của W. A. Mozart), Anton Reicha(nhà lý luận quan trọng của thời cổ điển và là thầy của Franz Liszt, Hector Berlioz và César Franck), Giacomo Meyerbeer,  Franz Xaver Süssmayr(là người hoàn thành kiệt tác Réquiem của Mozart còn đang dang dở), Joseph Weigl, Peter Winter và nổi tiếng hơn cả là L. van Beethoven và F. Schubert. Trong số mấy người thầy của mình, Beethoven có mối thân tình với Salieri hơn cả, kể cả khi không còn theo học. Những người thầy khác, kể cả Haydn vĩ đại, đều cho rằng người học trò của mình quá kỳ quặc, khó hiểu.  

3. Alexander Glazunov (1865-1936) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng và nhạc sư vào cuối thời kỳ Lãng mạn Nga. Ông là giám đốc của Nhạc viện Saint Petersburg từ năm 1905 đến năm 1928. Sau đó nhạc viện này đổi tên thành Nhạc viện Petrograd, rồi Nhạc viện Leningrad sau Cách mạng tháng Mười. Ông làm giám đốc Nhạc viện đến năm 1928 khi ông rời Liên Xô. Trong thời gian làm giám đốc nhạc viện, ông đã làm việc không mệt mỏi để cải thiện chương trình giảng dạy, nâng cao tiêu chuẩn cho sinh viên và nhân viên, cũng như bảo vệ phẩm giá và quyền tự chủ của Nhạc viện. Ông như người cha đối với các sinh viên nghèo khó như Dmitri Shostakovich hay Nathan Milstein. Ông chu cấp cho họ đến cả bữa ăn và giấy viết nhạc cho họ.  

4. Arnold Schoenberg (1874-1951) sinh ra trong một gia đình Do Thái trung lưu  ở Vienna. Để tránh chính quyền Phát xít, ông sang Pháp rồi Hoa kỳ và định cư ở đó. Ông là một trong những nhà soạn nhạc và lý luận sáng tác có nhiều ảnh hưởng nhất trong thế kỷ XX với với hệ thống 12 cung do ông sáng tạo ra. Ông có nhiều học trò thành danh và đa dạng: các nhà soạn nhạc Alban Berg, Anton Webern, Hanns Eisler, Egon Wellesz, John Cage, Lou Harrison, Earl Kim, Leon Kirchner và nhạc trưởng danh tiếng Otto Klemperer. Trong số các học trò đó, Alban Berg và Anton Webern đã trở thành người đồng chí với ông để hình thành Trường phái Viên thứ Hai.

 5. Nadia Boulanger (1887-1979) là nhạc trưởng, nghệ sĩ piano, nghệ sĩ organ và giáo sư Nhạc viện Paris. Bà là con của nhà soạn nhạc, pianist Ernest Boulanger, em gái của nhà soạn nhạc nữ tài năng  Lili Boulanger và là học trò của G. Fauré. Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên chỉ huy các dàn nhạc lớn ở châu Âu và Hoa Kỳ: Dàn nhạc giao hưởng BBC, Dàn nhạc giao hưởng Boston, Dàn nhạc giao hưởng Hallé và Dàn nhạc giao hưởng Philadelphia. Dù thành công trên sân khấu hòa nhạc, bà đã quyết định chọn giảng dạy là sự nghiệp chính của của mình. Danh sách sinh viên của bà thật phi thường. Về sáng tác, họ là những nhà soạn nhạc với phong cách khác nhau: từ chủ nghĩa hiện đại như George Antheil và Elliott Carter đến chủ nghĩa tối giản  như Philip Glass; từ nhà soạn nhạc Tango mới Ástor Piazzolla đến nhạc sĩ jazz Donald Byrd. Về biểu diễn, họ là những ngôi sao như nghệ sĩ piano - nhạc trưởng Daniel Barenboim, nghệ sĩ piano İdil Biret, nhạc trưởng John Eliot Gardiner, nghệ sĩ piano Dinu Lipatti, nhạc trưởng Igor Markevitch … 

Trịnh Minh Cường

Theo BBC Music magazine

Đăng trên tạp chí Âm nhạc số 3/2021





 




Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...