Thời Baroque trong lịch sử âm nhạc phương Tây là một thời kỳ có ảnh dưởng lâu dài khi lĩnh vực thanh nhạc tôn giáo và khí nhạc đa âm đã đạt đến những đỉnh cao. Đó là những kiệt tác oratorio của J S Bach và G F Handel và những kiệt tác Nghệ Thuật Fugue và Bình quân Luật cho đàn phím của J S Bach. Bên cạnh đó, các nhà soạn nhạc đã tăng cường kết nối với hoạt động giải trí phổ biến nhất là nhảy múa. Do đó âm nhạc phục vụ nhảy múa đã phát triển rực rỡ cùng sự phát triển của nghệ thuật sân khấu này. Đồng thời hình thành thể loại khí nhạc mới là các liên khúc gồm nhiều vũ khúc sắc thái khác nhau từ các dân tộc khác nhau.
Liên khúc
là các sáng tác nhiều chương. Ở mỗi thời kỳ âm nhạc số lượng và cấu trúc các
chương có những đặc trưng riêng với độ phức tạp tăng dần. Trong thời Baroque,
các chương của liên khúc thường là các vũ khúc hoặc là các chương mang tiêu đề là
nhịp độ như Andante, Adagio … hoặc các biến khúc hoặc một fugue. Các liên khúc
này thường viết cho độc tấu hoặc dàn nhạc. Bài viết này chỉ đề cập đến các thể loại cho
nhạc cụ độc tấu, đó là sonata và các tổ khúc.
Sonata
Trong thời
Baroque sonata thường là sáng tác một chương và nổi tiếng nhất là các sonata
cho đàn phím của Domenico Scarlatti: https://open.spotify.com/playlist/26GDyvcnXpxAklAGbLLYWo?si=9f9969caa0c24c19
Sonata
nhiều chương nổi tiếng nhất là 3 sonata BWV 1001, 1003 và 1005 của Johann
Sebastian Bach trong tập Sáu Sonata và Partita cho violin độc tấu. Ba sonata
này đều có một chương fugue làm trung tâm và ba chương mang tiêu đề nhịp độ:
Adagio, Andante hay Presto … Nhìn chung nhịp độ các chương nhanh và chậm
xen kẽ nhau.
https://open.spotify.com/album/2dsh16TpK7hOnM98NLjIyK?si=BBo9EgNQSUm-t59NxSlulw
Tổ khúc
Thuật ngữ
tổ khúc là một trường hợp đặc biệt khi chỉ có tiếng Việt trong khi các thuật ngữ
âm nhạc phương Tây đều từ các ngôn ngữ châu Âu: Ý, Pháp, Anh. Thuật ngữ tổ khúc có thể xuất phát
từ thuật ngữ suite nhưng thực ra tổ khúc không chỉ có suite mà là các sáng tác
nhiều chương phần, thậm chí một chùm tác phẩm như 4 concerto Bốn Mùa của A
Vivaldi. Trong âm nhạc thời Baroque, tổ khúc còn là partita hoặc French overture. Vì vậy việc chuyển
ngữ các thuật ngữ có thể gây gây nhầm lẫn. Trong việc chuyển ngữ tên các thể loại
âm nhạc phương Tây chỉ có một trường hợp duy nhất ổn thỏa là giao hưởng - symphony. Còn những nỗ lực chuyển ngữ các thể
loại khác cứ đúng chỗ nọ lại sai chỗ kia, nên tôi cứ dùng nguyên ngữ cho lành.
Thuật ngữ giao hưởng có lẽ là cách chuyển ngữ của người Nhật. Theo cuốn Chân
trời Ngôn ngữ của nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Hoành, người Nhật chuyển ngữ rất
thành công nhiều thuật ngữ từ các ngôn ngữ phương Tây sang tiếng Trung và người
Trung Quốc cũng đồng tình sử dụng.
Trong ba
loại tổ khúc kể trên thì suite phổ biến nhất. Khái niệm suite xuất hiện từ thế
kỷ XVI từ môn khiêu vũ với nghĩa ban đầu là một cặp điệu nhảy để nhảy tiếp nối
nhau. Số lượng tăng dần lên ba bốn năm … và các nhà soạn nhạc cũng sử dụng thuật
ngữ suite khi đưa các điệu nhảy vào các sáng tác hòa nhạc nhiều chương. Thời
Baroque là thời nở rộ của những suite rồi partita và overtute với các tên tuổi Johann
Jakob Froberger người Đức (1616 – 1667), Francois Couperin Lớn người
Pháp(1668-1733, Lớn kèm theo tên để phân biệt với các thành viên khác cũng nổi
tiếng trong dòng họ âm nhạc Couperin), và tất nhiên đỉnh cao là hai tên tuổi
người Đức J S Bach(1685-1750) và G F
Handel(1685-1759).
Có quan
điểm cho rằng Froberger là người sáng tạo ra thể loại suite Baroque, tuy nhiên
đó là một nhầm lẫn. Đã có nhưng nhà soạn nhạc người Pháp đã sáng tác suite trước Froberger không đạt được chất lượng nghệ
thuật như các suite của Froberger. Suite điển hình của Froberger bao gồm các
chương allemande, courante, sarabande và gigue. Đã có tranh cãi xung quanh vị
trí của gigue. Trong bản viết tay xác thực sớm nhất tập nhạc Libro Secondo của Froberger, năm trong sáu suite có ba chương mà
không có gigue. Suite số 2 duy nhất có gigue là chương thứ 4 và một bản chép
sau đó thêm gigue vào các sute số 3 và 5. Tất cả các suite trong tập của Libro
Quarto đều có gigue là chương thứ 2. Trình tự này trở thành chuẩn mực sau khi
Froberger qua đời. Còn suite có gigue là chương cuối cùng lần đầu tiên xuất hiện
trong ấn bản các tác phẩm của Froberger của nhà xuất bản Mortier ở Amsterdam vào
những năm 1690.
Các tổ
khúc cho đàn phím
Tập 1 các
suite cho harpsichord của J J Froberger:
https://open.spotify.com/album/3Pvhvu8DfvHpck1MPY7GP5?si=4G0-OqxcTauU44E2m51VAw
Robert de
Visée(1652-1730) người Pháp viết 12 suite cho guitar và 7 chùm Các Tiểu phẩm cũng gồm các vũ khúc
như suite. Các sáng tác này tập hợp thành các cuốn sách nhạc đề tặng nhà Vua:
https://open.spotify.com/album/78LtCBtSObJ7j4lbaKMTIi?si=5NGn-5-CSAOZ5PKQwr0Iuw
F Couperin
Lớn sáng tác bốn tập nhạc cho
harpsichord được xuất bản tại Paris vào các năm 1713, 1717, 1722 và 1730. Bốn tập
này gồm hơn 230 vũ khúc truyền thống cùng các bản có tiêu đề có tính mô tả được
nhóm thành các ordre - một thuật ngữ đồng
nghĩa với suite:
https://open.spotify.com/album/1iyH1tZ27dRBjuEX9Mh7he?si=WeNu5helQdO3BmHHwHxRKQ
Các tổ
khúc cho đàn phím của J S Bach
French
overture BWV 831: https://open.spotify.com/album/59khug9YN4a6NLzLDM9PyC?si=kXoASaimQKC-yaVO3aT71w
Sáu
partita: https://open.spotify.com/album/61UszrMDhufhN6bGF7Rpb1?si=V3WwQwP7SUOXOBHX5Yy7kQ
Sáu suite
Pháp: https://open.spotify.com/album/50Tp1V8zhhorvJmhWBVSY8?si=N5xZO0d1STi61iCfRJmImA
Sáu suite
Anh: https://open.spotify.com/album/2QHtSgiEI6QhzdJunbi71Q?si=1s9i3azwQ9a7ILzPGPXLAQ
Đến nay
chúng ta chưa biết vì sao Bach đặt tên cho hai tập suite trên là kiểu Pháp và
kiểu Anh.
Sáu
overture cho harpsichord của G P Telemann(1681-1767): https://open.spotify.com/album/0chKCd7RcB11foynt0Jsio?si=D0CX0PpmT0WagYVdWzslmA
Các
partita cho harpsichord của Christoph Graupner(1683-1760):
https://open.spotify.com/album/766fvkVC6oVzUBy1MjFeUN?si=WCabCyekQnKmz5GjxKz_MQ
Các suite
cho đàn phím của G F Handel:
https://open.spotify.com/album/09apdkN7C5rp0toRShZkOM?si=tyva43xTT6-KRh1T8EAdAg
Thông thường
nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ nhạc cụ gì thường sẽ viết chủ yếu cho nhạc cụ đó. Trong
thời Baroque hầu hết các nhà soạn nhạc là nghệ sĩ đàn phím, gần như chắc chắn
phải là nghệ sĩ organ là công việc dễ kiếm nhất cho một nhạc sĩ chuyên nghiệp, đồng
thời họ cũng thường chơi được không chỉ một nhạc cụ. Nhưng hầu như chỉ có J S
Bach viết nhạc cho các nhạc cụ không phải đàn phím là sở trường của mình.
Các tổ
khúc của J S Bach viết cho các nhạc cụ khác:
Ba
partita cho violin độc tấu: https://open.spotify.com/album/7vhwBc1r2s3uCMU4vFTR7X?si=u7_iS9XNQSuWVem_5OBekQ
Sáu suite
cho cello độc tấu: https://open.spotify.com/album/5T8L9CeByDoIkfFsq2V5kY?si=ABWCm2-TTJiCqsf0cBHQkA
Tổ khúc
cho lute gồm 3 suite, 1 partita và 1 tổ khúc có tiêu đề ghép Prelude, Fugue
& Allegro BWV 998: https://open.spotify.com/album/02xTr19jXwL9VFn0BcGkQs?si=4t3ikreaRnmG48vT-5ENhQ
Tổ khúc
cho flute – partita cho flute độc tấu BWV 1013 là một tác phẩm độc nhất vô nhị
của Bach. Flute chỉ diễn tấu được một bè đơn điệu, tức là không có hai nốt cùng
kêu, nhưng vẫn thể hiện được tính chất đa âm – gồm nhiều hơn một bè: https://open.spotify.com/album/2rqNF6hkCF4vFAZ8ujmY1J?si=ZsvvKZh8SbimJhqFz5-ZYA (cuối disc 1)
Về cấu
trúc
Các tổ
khúc thường có 5-6 chương, thường bắt đầu bằng prelude rồi nối tiếp bằng các vũ
khúc có nhịp độ tương đối khác nhau. Vũ khúc chậm nhất là sarabande thường ở
khoảng giữa, chương kết thường là gigue. Các vũ khúc khác thường được chọn làm
các chương sau là allemande, courante, minuet(menuet), air(giai điệu), rigaudon,
gavotte, bourrée, passpied, chaconne, loure. Để biết thêm về các vũ khúc mời
xem bài này: https://bagiaiguitarist.blogspot.com/2025/02/vu-ieu-va-vu-khuc-baroque.html
11/2/2025
Trịnh
Minh Cường
Nhận xét
Đăng nhận xét