Chuyển đến nội dung chính

GEORGE FRIDERIC HANDEL


Georg Friederich Händel sinh ngày 23 tháng 2 năm 1685 tại Halle hay Saale trên sông Saale ở Thuringia, Đức. Năm 1685 là năm cổ điển thực sự với các nhà soạn nhạc thời Baroque khi cả hai bậc thầy khác đều sinh vào năm này: J. S. Bach – 21 tháng 3 và D. Scarlatti  - 26 tháng 10. Quê hương của Bach ở Eisenach cũng thuộc xứ Thuringia.

 Từ Đức qua Ý đến Anh

Mặc dù người cha đã có ý định cho con mình theo nghề luật, nhưng khuynh hướng âm nhạc của Georg luôn rõ ràng từ nhỏ. Năm 1703 khi 18 tuổi, anh đến Hamburg dạy nhạc để kiếm sống và được nhận vào Nhà hát Opera Hamburg làm nghệ sĩ violin. Anh kết bạn với Johann Mattheson, người đã ghi chép về các sự kiện trong cuộc đời của Handel trong thời gian ở đó, và họ cùng nhau đến thăm bậc thầy Buxtehude ở Lübeck trong năm đó. Đầu năm sau, Handel đã hoàn thành hai vở opera đầu tiên: Almira và Nero.

Khi ở Hamburg, Handel đã làm quen với Hoàng thái tử Ferdinando de Medici, con trai và là người thừa kế của Đại công tước Tuscany, và ông đã mời Handel đến thăm Ý. Handel đã dành hơn ba năm ở Florence, Rome, Naples và Venice. Đến năm 1706, ông đến Rome. Ở đây, Hầu tước (sau là Hoàng tử) Francesco Ruspoli thuê ông làm nhạc sĩ của gia đình và ông sáng tác hầu hết các tác phẩm lớn phong cách Ý ở đây. Chuyến đi này rất quan trọng. Âm nhạc thời baroque hay bất kỳ thời kỳ nào, đều có những khuôn mẫu đặc trưng. Phần lớn đặc trưng của âm nhạc baroque có thể bắt nguồn từ Ý và đặc biệt từ A Corelli, người từng dạy Handel. Ảnh hưởng của âm nhạc Ý thể hiện trong mối bận tâm cả đời của Handel với opera cũng như với các "ngôi sao" opera Ý. Các Concerto Grosso của ông cũng vậy, đó là những chứng cứ cho ảnh hưởng của Ý và Corelli.

Ý là một trung tâm âm nhạc lớn, đặc biệt là trong 20 năm đầu của những năm 1700. Handel đã gặp gỡ và giao lưu với nhiều nhà soạn nhạc, nhạc công và giới quý tộc hàng đầu thời bấy giờ và không chỉ người Ý. Đó là điều bắt buộc với tất cả ai yêu thích văn hóa và âm nhạc, bất kể bình dân hay quý tộc,  muốn thực hiện Vòng quanh châu Âu, đương nhiên bao gồm các trung tâm văn hóa chính của Ý. Do đó, trong chuyến đi vòng quanh nước Ý, Handel đã có một số mối quan hệ hữu ích bao gồm với Công tước Manchester, Đại sứ Anh, và quan trọng nhất là Hoàng thân Ernst August của Hanover, anh trai của Tuyển vương (sau này là Vua George I của Anh), người đã giục ông đến thăm Hanover. Hoàng thân cũng có thể đã xác định được khả năng đảm nhiệm một vị trí tại triều đình Hanover, vì khi Handel rời Ý vào đầu năm 1710 để đến Hanover, nơi ông được bổ nhiệm làm Nhạc trưởng cho Tuyển vương George Louis, người đã ngay lập tức cho ông nghỉ phép mười hai tháng để thăm nước Anh. Hoàng gia Anh và Đức luôn có quan hệ mật thiết với nhau. Đạo luật Cư trú năm 1701 bảo đảm sự kế vị của người theo đạo Tin lành đối với Vương miện của Anh, đã khiến cho mẹ ông chủ Hanover của Handel là George Louis được cho là sẽ lên ngôi Đại đế Anh quốc. Do đó, Tuyển vương George Louis sẽ rất nóng lòng muốn Handel đi do thám vùng đất này và báo cáo lại với ông ta về đời sống âm nhạc, xã hội và chính trị ở London.

Trong chuyến đến London đầu tiên tám tháng này, Handel được tiếp đón một cách ưu ái tại triều đình của Nữ hoàng Anne. Dù sao ánh mắt của ông chủ yếu hướng về nhà hát opera mới của Vanburgh, Nhà hát Nữ hoàng ở Haymarket. Rinaldo, vở opera kiểu Ý đầu tiên được sáng tác đặc biệt cho London, đã được trình diễn ở đó vào năm 1711 và thành công một cách kinh ngạc. Chỉ trở về Hanover một thời gian ngắn vào năm 1711, Handel đã quay lại London vào năm 1712 khi ông được mời viết một Tụng ca Hoàng gia Anh để mừng ngày sinh của Nữ hoàng Anne. Nữ hoàng thường ít quan tâm đến các nhà soạn nhạc của mình, vì (theo Công tước Manchester) '' quá bận rộn hoặc quá bất cẩn để nghe ban nhạc của riêng mình, và không nghĩ đến việc nghe và trả tiền cho những người chơi mới dù họ có là thiên tài hay không có kỹ năng''. Do đó, thật ngạc nhiên khi bà đã cấp cho Handel khoản lương suốt đời là 200 bảng một năm.

Nhưng sức khỏe của Nữ hoàng ngày càng giảm sút, và đến tháng 9 năm 1714, nước Anh có quốc vương mới. Do đó, George Louis, Tuyển vương của Hanover, đã được nhập quốc tịch theo Đạo luật Quốc hội năm 1705 và trở thành Vua George I của Anh, khởi đầu cho Hoàng gia Hanover. Một trong những cam kết đầu tiên của nhà vua mới là tham gia buổi lễ sáng tại Nhà nguyện Hoàng gia, nơi '' sẽ hát bản Te Deum do Ngài Handel sáng tác "- và vị trí của Handel với nhà vua mới dường như đã được bảo đảm. Ngoài các nhiệm vụ đối với Nhà vua và Triều đình, bài hát  Te Deum “Caroline” của ông đã được trình diễn bởi các nhạc công của Nhà nguyện Hoàng gia trong lễ đính hôn hoàng gia đầu tiên của nhà vua - Handel trở thành thầy âm nhạc cho các công chúa, sau đó có thể ông đã sáng tác cho họ các tổ khúc cho đàn phím xuất bản năm 1720. Mùa hè năm 1717, nhà vua muốn có một buổi hòa nhạc trên sông Thames và Handel được giao viết 'Nhạc nước' cho bộ hơi và dây. Cùng các thành viên của triều đình và các nhạc sĩ trên thuyền rồng, đêm nhạc giải trí đã diễn ra đến tận sáng.

 Từ Hoàng gia đến opera

Tình yêu vĩ đại của Handel đối với opera, những ca sĩ rực rỡ của nó và thách thức trong việc kích thích và duy trì sự quan tâm của một khán giả vốn không kiên định bắt đầu kéo ông ra khỏi những bức tường khá chật hẹp của hoàng cung cùng âm nhạc ở đó. Handel đã được bổ nhiệm làm nhà soạn nhạc thường trú của Bá tước Carnarvon, thành Công tước Chandos từ năm 1717, người đã duy trì một nhóm ca sĩ và nhạc công để sử dụng trong hai ngôi nhà của mình, một ở trung tâm London, một ở vùng nông thôn yên tĩnh tại Cannons, Edgware, bắc London. Handel cũng như như bất kỳ nhà soạn nhạc nào đều rất ngạc nhiên về chất lượng của cơ sở âm nhạc của Công tước. Với tư cách là Bộ trưởng ngân khố dưới thời Nữ hoàng Anne, Công tước dường như đã tận dụng tốt vị trí của mình trong việc chuyển một phần không nhỏ ngân khố của vương quốc vào túi riêng của mình, gây ra một vụ bê bối lớn. Cơ sở âm nhạc của ông ta thuộc hàng cao cấp nhất với Pepusch làm nhạc trưởng và những tên tuổi như Francesco Scarlatti(anh trai của Alessandro  Scarlatti), Johann Christoph Bach, anh họ của J.S. Bach. Công tước đã viết cho bạn của mình là bác sĩ cung đình, bác sĩ Arbuthnot, rằng "Ông Handel đã viết cho tôi hai bản Tụng ca mới rất quý phái ...".

Trong vòng hai năm tiếp theo (1717-18) Handel đã viết 11 bản tụng ca, 1 Te Deum, và hai masque(họat cảnh âm nhạc và khiêu vũ có tính giải trí) - Acis và Galatea và Esther. Đồng thời, vào mùa đông năm 1718-19, các quý tộc đã thành lập một đoàn opera Ý ở London, đầu tiên được bảo trợ vốn bằng việc đặt vé trước trong 8 năm, triệu tập thành viên của đoàn, với sự cho phép của nhà vua, là 'Học viện Âm nhạc Hoàng gia' với Handel là giám đốc âm nhạc. Nhận thức được tầm quan trọng của việc chỉ tuyển dụng những ca sĩ và nhạc công giỏi nhất, đặc biệt là trong những bè hát chính được thống trị bởi một số ít "ngôi sao" quốc tế, Handel đã mời những ca sĩ và  nhạc công người Anh xuất sắc nhất, sau đó đến Dresden để tìm kiếm những ngôi sao người Ý mà ông luôn cố gắng để cân bằng phần nào. Mùa đầu tiên của Học viện Hoàng gia khai mạc vào ngày 2 tháng 4 năm 1720 với vở Numitore của Giovanni Porta, ngay sau đó là vở Radamisto của Handel. Trong tám năm sau, gần nửa số buổi diễn được dành cho các vở opera của Handel.

Năm 1727, không lâu trước khi George I qua đời, Handel trở thành thần dân Anh và đổi tên hành George Frideric. Ông vẫn là nhà soạn nhạc của Nhà nguyện Hoàng gia được bổ nhiệm từ năm 1723. Handel đã sáng tác bốn tụng ca quy mô lớn cho lễ đăng quang của vua George II và hoàng hậu Caroline tại Tu viện Westminster vào ngày 11 tháng 10 năm 1727, báo chí đương thời tường thuật là một sự kiện cực kỳ tráng lệ. Âm nhạc Handel viết  cho dịp này (nổi tiếng nhất, bản linh mục Zadok, sẽ được hát trong mỗi lễ đăng quang kể từ đó) cũng hào hùng tương ứng và danh tiếng của nó vẫn còn nguyên sức sống trong nhiều năm sau đó. Năm năm sau, năm 1732, danh tiếng của âm nhạc đăng quang của Handel đến mức ông quảng bá buổi biểu diễn oratorio tiếng Anh đầu tiên của mình tại một nhà hát ở London: "Âm nhạc viết theo phong cách nhạc Lễ Đăng quang".

Vài tháng sau, tháng 1 năm 1728, vở Opera của Gay Beggar đã ra mắt  tại nhà hát ở Lincoln's Inn Fields. Đó không phải là một vở opera thực thụ mà là một vở kịch với các ca khúc được tạo nên từ các giai điệu nổi tiếng (bao gồm cả một số giai điệu của Handel), và đề cập đến cuộc sống thấp kém của London theo cách nhại lại các sự kiện chính trị và văn hóa đương thời – kể cả opera Ý. Hơn 60 suất diễn đã thực hiện trong năm đó làm lu mờ mùa kết thúc của Học viện Hoàng gia. Điều này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó đã đánh dấu sự khởi đầu của sự thay đổi trong gu âm nhạc và thời trang ở London, thoát khỏi opera Ý để chuyển sang một thứ gì đó ít cao sang hơn, gần gũi và dễ hiểu hơn.

Tuy nhiên, Handel đã từ chối rời opera của Ý và vẫn tiếp tục viết và sản xuất chúng. Nhiều bạn bè và những người ủng hộ Handel đã cố thuyết phục ông chuyển sang viết opera tiếng Anh nhưng vô ích. Năm 1733, một số bạn bè, đồng nghiệp và những người bảo trợ cũ của ông đã quyết định đáp trả sự kiêu ngạo của ông bằng cách bỏ Học viện Hoàng gia để thành lập cái gọi là 'Nhà hát của Quý tộc' do Hoàng tử xứ Wales đứng đầu. Cuối mùa diễn năm 1734, Handel đã phải chịu bị làm nhục khi Nhà hát của Nhà vua nhất thời để vuột mất sự thành công cho Nhà hát quý tộc.

Từ opera đến oratorio

Việc chuyển từ Opera sang Oratorio tất nhiên không diễn ra ngay lập tức. Vở  Esther của Handel được sáng tác vào khoảng năm 1720 cho Công tước Chandos không được trình diễn trong Nhà nguyện tại Cannons mà ở "phòng khách lớn" như một vở diễn cổ trang, đã là "ngôi nhà nửa chừng" giữa Opera và Oratorio. Năm 1732, Handel sửa lại tác phẩm này và trình bày lại tại Nhà hát Haymarket. Mặc dù có thể có lý khi cho rằng Handel đã "phát minh ra" Oratorio, nhưng trên thực tế, đó là do ý đồ của Giám mục London, người đã can thiệp vào thời điểm đó, cấm bất kỳ hình thức trình diễn nào trên sân khấu theo một chủ đề Kinh thánh. Thông qua sự kiểm duyệt thuần túy này, Handel đã phát hiện ra thực tế có một lượng khán giả quan tâm đến những vở diễn âm nhạc kinh thánh không diễn xuất. Sau đó Handel đã sản xuất hai vở Deborah và Athalia, vở nhà âm nhạc học Basil Lam đã gọi là "Oratorio vĩ đại đầu tiên của Anh". Do đó, một mặt xu hướng viết Oratorio của Handel đang tăng lên, trong khi các hoạt động biểu diễn của ông lại giảm đi – một điều cần thiết vì công chúng hiện đã khá mệt mỏi với opera Ý.

Vào tháng 4 năm 1737, Handel bị đột quỵ hoặc một chấn thương khiến tay phải bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ông đang kiệt sức vì những căng thẳng trong 5 năm qua. Bạn bè và những người bảo trợ của ông tự hỏi liệu ông còn chơi đàn hay sáng tác nữa không? Ông tới nghỉ ở Aix-la-Chapelle để tắm hơi. Sáu tuần sau, ông trở lại London trong tình trạng phục hồi một cách thần kỳ. Tình cờ chứng kiến những đứa con của một nghệ sĩ oboe quá cố đi ăn xin ở các quán cà phê, ông đã vận động những người bạn lập ra Quỹ trợ giúp các nhạc sĩ nghèo túng. Ông đã có thể chơi đàn organ và bắt đầu lên kế hoạch cho những tác phẩm tiếp theo của mình. Handel vẫn quyết tâm viết cho sân khấu, nhưng cũng chấp nhận thực tế của việc thay đổi thị hiếu của công chúng và tính kinh tế của việc phớt lờ chúng - Handel đã chuyển sang một hình thức mà ông đã dần phát triển trong hơn mười năm: oratorio tiếng Anh, theo nhiều cách có tính nhạc opera, mặc dù phụ thuộc nhiều hơn vào hợp xướng. Tiếp theo tụng ca Lễ Alexander là Il trionfo del Tempo e della Verita, rồi đến Saul, và sử thi Israel ở Ai Cập (1739). Nhà xuất bản cho Handel, John Walsh, đã thực hiện một bước chưa từng có khi phát hành toàn bộ tổng phổ của Lễ Alexander, qua đó khẳng định tính đại chúng không chỉ của tác phẩm mà còn của thể loại này. Cuối cùng Handel đã nhận ra sở thích và thị hiếu của công chúng với các tác phẩm hợp xướng tiếng Anh, do đó tự tạo cho mình một sức sống sáng tạo mới.

Vào cuối những năm 1730, Handel đã viết nhiều nhạc cho dàn nhạc hơn. Chủ yếu là các interlude(khúc khí nhạc xen giữa các hồi) trong các oratorio của mình, các organ concerto của ông cũng ngày càng trở nên phổ biến một cách xứng đáng. Trong thư gửi cho mẹ, Quý Bà Pendarves đã mô tả các concerto này là “những điều tuyệt vời nhất con từng nghe trong đời”. Ngài John Hawkins đã viết về Handel: "Khi ông ấy đưa ra một bản concerto, phương pháp của ông ấy nói chung là giới thiệu nó với một chương chủ động trên các âm mẫu, được truyền vào tai một cách chậm rãi và trang trọng; hòa âm chặt chẽ đã được tạo ra, và đầy đủ như có thể diễn đạt; các đoạn được kết nối với nghệ thuật kỳ diệu, toàn bộ hoàn toàn dễ hiểu và mang dáng vẻ của sự hồn nhiên tuyệt vời. Kiểu prelude này thành công bởi chính  concerto mà ông viết với một tinh thần và sự vững chắc mà chưa ai có thể sánh bằng.” Hầu như không có ngoại lệ, mỗi bản oratorio tôn giáo hay thế tục của Handel đều kèm theo ít nhất một organ concerto – kiệt tác Messiah cũng có khi biểu diễn ở Dublin và London.

Các Concerto Grosso Op 6 được sáng tác vào mùa thu năm 1739 và xuất bản vào tháng 4 năm 1740. Vào thời điểm đó âm nhạc của Handel ngày càng được ưa chuộng tại Vườn Vauxhall, nơi những nhà bảo trợ đi dạo theo những con đường, hòa mình giữa những bụi cây cảnh và hoa, và tham gia giải khát, trong khi thưởng thức các buổi biểu diễn khí nhạc và thanh nhạc phong phú của các nhà soạn nhạc và nhạc công hàng đầu. Sự nổi tiếng của Handel tại địa điểm thân hữu nổi tiếng này đã được chứng minh bằng việc đặt bức tượng bán thân bằng đá cẩm thạch của Handel do nhà điêu khắc Louis-Francois Roubiliac chế tác, được đặt làm bởi Jonathan Tyers, chủ những khu vườn thú vị này.

Vào mùa hè năm 1741, Handel nhận được lời mời từ Lãnh chúa ở Dublin để sáng tác một oratorio tôn giáo mới sẽ tổ chức vào năm 1742 cùng một loạt các buổi biểu diễn  Alexanders Feast, Acis và Galatea, Tụng ca cho Ngày Thánh Cecilia và L'Allegro. tại New Music Hall, Fishamble Street, Dublin. Tác phẩm được đặt viết dựa libretto từ Kinh thánh do Jennens viết chính là Messiah. Từ buổi biểu diễn đầu tiên vào tháng 4 năm 1742, bao gồm cả buổi từ thiện để xem trước, Messiah đã là một thành công ngoài sức tưởng tượng, chiếm vị trí trong số những tác phẩm hay nhất và được yêu thích nhất từng được sáng tác. Thu nhập từ các buổi diễn tương đương với 2,85 triệu euro bây giờ. Phần lớn ông dùng để trợ giúp cho các cô nhi viện và người nghèo.Khi trở lại London, Handel đã sắp xếp cho một mùa oratorio đặt vé trước bắt đầu vào đầu năm 1743. Ông thuê nhà hát Covent Garden rồi vào tháng 2 khai mạc chùm các buổi diễn với vở Samson được đón nhận nồng nhiệt, tháng sau diễn vở Messiah.

Handel bị một cơn đột quỵ khác vào tháng Tư. Tuy nhiên, ông chỉ khó ở nhất thời và sớm khiến mọi người kinh ngạc bởi dòng tác phẩm quy mô lớn ra đều đặn, chủ yếu là oratorio, mà ông tiếp tục sản xuất. Năm 1749, ông chuẩn bị Nhạc Pháo hoa Hoàng gia được hoan nghênh nhiệt liệt để diễn kèm các lễ hội tại Green Park để kỷ niệm Hiệp ước Aix-la-Chapelle (một buổi xem trước tại Vauxhall Gardens cho rất nhiều người tham dự). Buổi biểu diễn Messiah đầu tiên của tại Bệnh viện Foundling (một tổ chức từ thiện ở London do ông làm Giám đốc từ năm 1740) diễn ra vào tháng 4 năm 1750 đã trở thành một sự kiện thường niên sau đó. Sau đó, ông bắt đầu viết Jephtha. Nhưng trong quá trình viết hợp xướng kết ở Màn II  How dark, 0 Lord, are thy decrees. All hid from mortal sight, thị lực mắt trái khiến ông thất bại. Không lâu sau đó mắt phải của ông cũng bị hỏng. Ngay cả khi bị mù hoàn toàn vào năm 1752, ông vẫn tiếp tục biểu diễn các organ concerto và voluntary(bản nhạc thường viết cho organ chơi giữa các buổi lễ) giữa các phần trong các oratorio của mình. Trí nhớ và khả năng ứng tác của ông vẫn rất tuyệt vời. Ông vẫn tham gia vào việc sắp xếp các buổi biểu diễn các tác phẩm của mình cho đến khi qua đời vào ngày 14 tháng 4 năm 1759. Handel gần như trở thành huyền thoại sống. Ông được chôn cất tại Tu viện Westminster, nơi chôn cất ông được đánh dấu bằng tượng và lại là của Roubiliac. Chưa thấy nguồn nào viết về đời tư của Handel. Ông chưa bao giờ kết hôn và giữ kín chuyện riêng của mình. Di chúc của ông để lại phần lớn tài sản của mình cho cháu gái Johanna, phần còn lại thuộc về các mối quan hệ khác, người hầu, bạn bè và các tổ chức từ thiện.

Các tài liệu về cuộc đời của ông bắt đầu được đưa ra tới tấp. Vào năm 1784 kỷ niệm 25 năm ngày mất của ông, một chùm ba buổi hòa nhạc kỷ niệm chưa từng có đã được tổ chức tại Tu viện Westminster và Điện Pantheon. Đỉnh điểm là vào ngày 29 tháng 5 một buổi biểu diễn đại chúng vở Messiah  tại Tu viện. Thật vậy, có lẽ nhờ tác phẩm vĩ đại và vĩnh cửu này mà Handel được biết đến nhiều nhất cho đến ngày nay.

L. Van Beethoven đã ca ngợi Handel là “ bậc thầy vô song của những bậc thầy. Hãy học tập ông cách sáng tạo nên cái hùng vĩ bằng những chất liệu thật giản dị, đơn sơ. “

Handel đã sáng tác 42 opera, 25 oratorio(thời lượng như opera), hơn 120 cantata, rất nhiều trio và duet, aria và thánh ca, 18 concerto grosso, 12 organ concerto, solo và trio sonata cùng các tổ khúc cho đàn phím.

Tổng thời lượng ghi âm toàn bộ sáng tác của Handel khoảng 337h, của Vivaldi – 235h, J. S. Bach – 175, Mozart – 245h. 

Phác thảo chân dung âm nhạc của ông: https://open.spotify.com/playlist/1rA6xf1MpblnUIs6Etzfob?si=a31e9dbde9e34cc7

23/2/2022

Trịnh Minh Cường tổng hợp

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...