Chuyển đến nội dung chính

ROSTROPOVICH, NGƯỜI LÀM CÂY CELLO THAY ĐỔI MÃI MÃI

Mstislav Rostropovich là nghệ sĩ cello có ảnh hưởng nhất mọi thời đại, một thế lực tự nhiên đã truyền cảm hứng cho nhiều tác phẩm  tuyệt với nhất thế kỷ 20. Học trò cũ Elizabeth Wilson của ông hồi tưởng về tài năng phi thường, cuộc đời đầy biến động và tính cách lôi cuốn của ông. Khi nhà soạn nhạc người Ba Lan Witold Lutosławski bắt đầu viết bản cello concerto của mình  vào năm 1970, người được đề tặng nó  là Mstislav (Slava) Rostropovich đã giục ông: “Anh cứ viết mà không phải nghĩ về cello. Tôi là cây cello rồi!” 

Mstislav Rostropovich là một trong những nghệ sĩ cello vĩ đại nhất mọi thời đại. Di sản của ông thật đáng kinh ngạc: ông đã trình diễn lần đầu gần 200 tác phẩm mới trong đời mình, nhiều tác phẩm được đặt viết hoặc viết tặng ông, và ông đã nâng tầm nghệ thuật cello bằng kỹ thuật điêu luyện, mạnh mẽ của mình.

Tại sao Rostropovich lại quan trọng?

Rostropovich chủ yếu được coi là người đã thay đổi lịch sử chơi cello của thế kỷ 20. Tất cả những ai xem ông chơi đàn đều thấy rõ năng lực thể chất thiên phú của ông đối với nhạc cụ của mình và như chính ông thừa nhận: ‘Chúa đã ban cho tôi hai điều tốt đẹp: đôi tay và trí nhớ của tôi.’ Đôi bàn tay to như được tạc của ông rất phù hợp với cây đàn cello; Trí nhớ tuyệt vời của ông là một món quà từ thiên nhiên, nhưng ông đã rèn giũa nó để có thể ghi nhớ ngay lập tức và biểu diễn mọi thứ (cả những tác phẩm mới) mà không cần bản nhạc – thành tích của ông học thuộc lòng bản Cello concerto số 1 của Shostakovich trong ba ngày đã thuộc biên niên sử của truyền thuyết.

Nhưng đôi tay và trí nhớ chưa đủ để tạo nên những thành tựu đáng kinh ngạc của nghệ sĩ. Với mong muốn quảng bá đàn cello đến mức độ phổ biến như piano và violin, ông đã tán tỉnh và truyền cảm hứng cho các nhà soạn nhạc viết cho nhạc cụ của mình. Khi vỡ một tác phẩm mới, sự đồng nhất của ông với quan niệm của nhà soạn nhạc lớn đến mức Shostakovich phải thừa nhận rằng Rostropovich đã trở thành “đồng tác giả của những tác phẩm được viết ra cho ông”. Tất cả điều này đạt được nhờ một nguồn năng lượng năng động thúc đẩy một động cơ dường như không bao giờ dừng lại – ông như sống ba cuộc đời cùng một lúc…


Mọi chuyện bắt đầu vào ngày 27/3/1927, khi Rostropovich chào đời ở Baku, Azerbaijan. Ngày nay, ngôi nhà của gia đình đã được chuyển thành một bảo tàng được chăm sóc cẩn thận - bức ảnh đầu tiên được trưng bày cho thấy cậu bé Slava nằm trong hộp đựng đàn cello của cha mình như cái nôi, như thể số phận một nghệ sĩ cello vĩ đại đã được định đoạt.Khi mới chập chững biết đi, cậu bé Slava đã bắt chước cách cha mình chơi cello bằng hai cây chổi. Khi lên ba, cậu đã có thể chọn ra các giai điệu trên đàn piano và trong vòng hai năm đã sáng tác được những khúc nhạc đầu tiên của mình. Ông Leopold Rostropovich cha cậu, một nhạc sĩ xuất sắc, đã nhận ra tài năng đặc biệt của con trai mình nhưng phải đợi con mình lên tám ông mới bắt đầu cho cậu chơi cello.

Gia đình  Rostropovich chuyển từ Baku đến Moscow vì chuyện học hành của trẻ con. Slava không theo học trường chuyên âm nhạc của Moscow mà học cùng cha tại một trường thường. Slava tiến bộ nhanh chóng và khi 13 tuổi cậu đã có buổi trình diễn đầu đời cùng dàn nhạc tại thị trấn Slavyansk với bản Concerto thứ Nhất của Saint-Saëns. Khi Thế chiến thứ hai bắt đầu, gia đình sơ tán đến Orenburg và  Leopold đột ngột qua đời ở đó vào tháng 6 năm 1942. Slava suy sụp. Tuy nhiên, anh đã nhận ra rằng cha anh đã truyền đạt tất cả những gì anh cần cho sự nghiệp chuyên nghiệp: kiến thức tổng thể về văn học âm nhạc, khả năng chơi piano và sáng tác, kỷ luật và trí tưởng tượng.  Khi cậu bé Slava 13 tuổi bày tỏ mong muốn được chỉ huy, cha cậu đã khuyên 'hãy đợi đến khi con có thể được các nhạc công đồng nghiệp tôn trọng vì khả năng chơi cello của mình'. Trên thực tế, khi lần đầu tiên chỉ huy một dàn nhạc vào năm 1962 (trong chương trình của Shostakovich), Rostropovich đã là một nghệ sĩ cello nổi tiếng quốc tế. Cú sốc mất người cha thân yêu đã buộc Slava phải ‘trở thành đàn ông khi 15 tuổi’. Anh đảm nhận công việc giảng dạy của cha mình (học sinh hầu hết đều lớn tuổi hơn anh) và tham gia các buổi hòa nhạc tập thể để có thêm khẩu phần ăn. Mùa xuân năm 1943, anh trở lại Moscow cùng chị gái và mẹ và ghi danh vào nhạc viện để học cello với Semyon Kozolupov và học sáng tác với Shebalin và Shostakovich. Anh đã hoàn thành khóa học trong ba năm thay vì năm năm và tốt nghiệp với huy chương vàng. Đó là lúc anh hình thành thói quen suốt đời là làm việc không chỉ ban ngày mà cả ban đêm, làm sao thì làm miễn là chỉ dành  ba tiếng cho việc ngủ.  Ngay cả trước khi tốt nghiệp, Rostropovich đã giành chiến thắng trong Cuộc thi biểu diễn toàn liên bang danh giá. Thành công ban đầu tiếp tục  được khẳng định bằng những chiến thắng tại các cuộc thi cello ở Budapest và Praha. Ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp biểu diễn, Rostropovich đã đặt ra cho mình một loạt nhiệm vụ và dự án. Mục tiêu đã nêu của anh ấy là giành được sự nổi tiếng cho đàn cello và tạo ra một nhạc mục mới cho nó hóa ra là công việc cả đời.

Rostropovich và các nhà soạn nhạc Liên Xô

Sự tiếp xúc sớm của Slava với Shostakovich và Prokofiev khiến anh nhận thức rõ hơn bao giờ hết về tầm quan trọng của sự đổi mới nghệ thuật. ‘Các nghệ sĩ cello đang làm gì vào thời Mozart?’, anh thường tự hỏi và tự trả lời, ‘Họ đang ngủ! Đáng lẽ họ phải quấy rầy Wolfgang để viết cho nhạc cụ của chúng ta!' (Ôi, người dịch cũng có thắc mắc y hệt). Vì vậy, không muốn bị buộc tội ngủ quên, Slava bắt đầu thuyết phục những nhà soạn nhạc giỏi nhất của Liên Xô sáng tác cho cello. Tác phẩm đầu tiên viết cho anh khi 21 tuổi là Cello Sonata số 2 của Myaskovsky. Prokofiev đã tham dự buổi ra mắt rồi năm sau, ông cũng viết một bản cello sonata mà ông đề nghị Rostropovich biểu diễn cùng nghệ sĩ piano Sviatoslav Richter.

Tất cả những chuyện này rơi đúng vào lúc chiến dịch của nhà nước Liên Xô chống lại chủ nghĩa hình thức trong âm nhạc đã làm nhục cả Prokofiev và Shostakovich. Cảm giác phẫn nộ của Slava khiến anh phải thề trung thành với những anh hùng suốt đời của mình, mặc dù bản thân anh cũng không thoát khỏi những lời chỉ trích và bị phê bình vì từ chối biểu diễn trong các buổi hòa nhạc phục vụ quân đội ở Đông Đức.

Mstislav Rostropovich, Shostakovich, và Prokofiev

Giờ đây Prokofiev tiếp tục chỉnh sửa  bản cello concerto viết năm 1938 của mình và mời Slava giúp đỡ. Kết quả là bản Concerto số 2 được Rostropovich trình diễn lần đầu vào năm 1952 với sự chỉ huy của Sviatoslav Richter (đột phá duy nhất của ông ngoài piano). Những chỉnh sửa tiếp theo đã dẫn đến phiên bản cuối cùng, Sinfonia Concertante dành cho cello và dàn nhạc, và chỉ được công diễn lần đầu sau khi Prokofiev mất. Đó là kiệt tác tuyệt vời đầu tiên dành cho cello và dàn nhạc được viết cho Rostropovich, người tin rằng nó đã khởi đầu một phản ứng dây chuyền. Có phần chịu ảnh hưởng từ tác phẩm của Prokofiev, Shostakovich viết bản Cello Concerto số 1 vào năm 1959 và tiếp tục sáng tác thêm 5 tác phẩm nữa cho Rostropovich và vợ ông, giọng nữ cao Galina Vishnevskaya.

Năm 1960, tại buổi ra mắt bản Cello Concerto số 1 ở London, Shostakovich đã giới thiệu Rostropovich với Benjamin Britten. Sau đó một tình bạn thân thiết và quan hệ đối tác nghệ thuật đã nảy sinh và dẫn đến việc Britten sáng tác năm tác phẩm tuyệt vời cho đàn cello, không phải không có một số đe dọa tinh nghịch từ phía Slava. Bản Cello Sonata được công diễn lần đầu tại Festival Aldeburgh năm 1961, từ đó truyền cảm hứng cho Rostropovich tổ chức festival âm nhạc đầu tiên ở Liên Xô vào năm 1964 tại thị trấn Gorky. 

Con người Rostropovich 

Rostropovich là một trong những nghệ sĩ Liên Xô chói sáng (gồm nghệ sĩ piano Emil Gilels và David Oistrakh, một trong những nghệ sĩ violin vĩ đại nhất mọi thời đại), những người đã có màn ra mắt ngoạn mục ở phương Tây vào năm 1955-56 nhờ chính sách trao đổi văn hóa mới. Nhưng Slava lại  khác với những nghệ sĩ kia: hướng ngoại và cởi mở hơn, và điều quan trọng là ông chưa trưởng thành trong thời kỳ Kinh hoàng của Stalin.

Với sự hài hước, duyên dáng, tự nhiên và táo bạo, ông nhanh chóng học được cách chơi lại hệ thống khiến đám quan chức bối rối và tránh xa ông. Một lần, ông đã đọc một danh sách các bản nhạc cello không tồn tại cho một quan chức bộ văn hóa chép mà không nghi ngờ gì. Các chương trình đó đã được chuyển đến Cơ quan Hurok cho chuyến lưu diễn tiếp theo tại Hoa Kỳ của ông: các bản sonata cho cello của Mozart và Scriabin, các Cello Suite  thứ bảy và thứ tám của Bach .v.v... Khi âm mưu này bị bại lộ, người ta đồn khắp Mátxcơva rằng Rostropovich đã lao tới Bộ như một chiếc xe tăng.

Một lần khác, Ekaterina Furtseva, Bộ trưởng Bộ văn hóa Liên Xô, thông báo với Oistrakh, Gilels và Rostropovich rằng với  tư cách là những người đứng đầu ban giám khảo các chuyên ngành của họ trong Cuộc thi Tchaikovsky năm 1970, họ phải đảm bảo rằng người chiến thắng đều là những nghệ sĩ khí nhạc Liên Xô. “Nhưng tại sao?” Rostropovich giả đò ngây thơ, Furtseva đã lườm ông: ‘Hôm nay là kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ilych [Vladimir Ilyich Lenin].’ ‘Ồ, trong trường hợp này,’ Slava trả lời, ‘sao chị không hoãn lại toàn bộ cuộc thi sang năm sau và tổ chức một cuộc thi công bằng?’

Nhưng Rostropovich đã thể hiện lòng yêu nước của mình theo những cách khác. Ông đã quảng bá mạnh mẽ cho âm nhạc Liên Xô tại quê nhà, và vào năm 1958 và 1959 đã biểu diễn một chuỗi hòa nhạc gồm các tác phẩm cho cello mới của các nhà soạn nhạc Liên Xô. Trong mùa diễn 1963-64, ông đã thực hiện một chuỗi 11 buổi hòa nhạc ở Moscow và Leningrad biểu diễn hơn 40 bản cello concerto, bao gồm các công diễn lần đầu của các tác phẩm của Khachaturian, Sauguet và Britten (Cello Symphony). Với lòng nhiệt tình không kém, ông đã thực hiện các chuyến lưu diễn 'vì nhân dân' ở thảo nguyên Altai, ngược dòng sông Yenisei và ở Yakutia, đến những nơi chỉ có thể đến được bằng thuyền hoặc xe trượt. Ông kể lại có lần ở Dzomgi, một thị trấn nhỏ bên sông Amur, ông đã kéo đàn cho năm khán giả. Thông thường, những buổi hòa nhạc có ít hơn 10 khán giả sẽ tự động hủy. Nhưng khi biết rằng khán giả của mình gồm có những cựu tù nhân Gulag đã đi bộ hai ngày để đến nghe mình đàn, ông đã không ngần ngại tiếp tục biểu diễn. Rostropovich đã hết mình quảng bá cây đàn của mình bằng cách thành lập các câu lạc bộ cello và dàn nhạc cello trên khắp Liên Xô. Ông nhấn mạnh rằng đàn cello phải được thành một hạng mục tại cuộc thi Tchaikovsky và ông đã sáng lập một cuộc thi cello quan trọng ở Pháp, đến nay cuộc thi này vẫn mang tên ông.

Nhưng Slava còn có nhiều thứ hơn là chỉ có cello. Các hoạt động của ông rất đa dạng và bản thân ông thường đùa “Khi tôi chơi cello chán, tôi đệm piano cho vợ và khi chán cả việc đó tôi đi dạy.” Thực ra, ông thường xuyên dành thời gian cho lớp của mình tại Nhạc viện Moscow và ở Leningrad sau đó. Bản thân tôi đã dành sáu năm trong lớp của ông ở Moscow  - đó là một bài kiểm tra về tính cách cũng như kỹ năng chơi nhạc cụ của một người. Nhiều giọt nước mắt đã rơi nhưng không là gì so với nguồn cảm hứng nghệ thuật và sự kích thích âm nhạc mà chúng tôi nhận được. Rostropovich là một “đốc công” đòi hỏi khắt khe nhất, luôn muốn học trò học được một bản concerto trong vài ngày. Ông cũng rất nghiêm khắc nhất với con gái Olga của mình. Một lần khi bắt gặp cô đang đọc sách thay vì luyện tập, ông đã đuổi cô xuống đường và vung cây cello của cô như một thanh kiếm; hình phạt khủng khiếp chỉ được ngăn chặn nhờ sự can thiệp của Shostakovich tình cờ đi ngang qua.

Lưu vong sang phương Tây 

Đằng sau sự xuất sắc và lôi cuốn  Rostropovich đã thu hút khán giả của mình là một tầm nhìn nhân văn sâu sắc về thế giới. Ông có đủ can đảm để đưa ra những quyết định khó khăn ngay cả khi chúng gây nguy hiểm cho sự nghiệp và gia đình ông. Ảo mộng bị tan vỡ của ông với hệ thống Xô Viết lên đến đỉnh điểm với cuộc xâm lược Tiệp Khắc vào năm 1968. Rostropovich thích hành động hơn lời nói và năm 1969 khi thấy nhà văn bị đàn áp Aleksandr Solzhenitsyn không còn nơi nào để sống, ông đã cấp cho nhà văn một ngôi nhà an toàn để ông có thể viết lách. Và khi sự kiện Solzhenitsyn được trao giải Nobel văn học năm 1970 đã gây ra phản ứng kịch liệt của cánh thân nhà nước trên báo chí Liên Xô, Rostropovich đã công khai một bức thư ngỏ ủng hộ nhà văn.

Hình thức trừng phạt cho kẻ to gan như vậy thật bất ngờ -  buộc phải rút lui dần dần khỏi cuộc sống hòa nhạc. Với một nghệ sĩ, điều đó khác nào xử tử, và Mstislav Rostropovich không còn lựa chọn nào ngoài việc xin rời khỏi tổ quốc. Tôi và một nhóm nhỏ bạn bè đón ông tại sân bay Heathrow vào tháng 5 năm 1974. Đó là một cuộc vượt sông Rubicon(một chuyến đi không trở lại-ND) đã phân chia cuộc đời nghệ thuật của ông và mở đầu của cuộc sống lưu vong 16 năm. Nỗi nhớ nhà đã được khỏa lấp bằng nguồn năng lượng to lớn được giải phóng giúp ông tái tạo lại cuộc sống nghệ thuật của mình ở phương Tây.

Ông đến London không có gì ngoài một chiếc vali, hai cây cello và con chó Newfoundland, nhưng chỉ vài tháng sau, ông đã tạo dựng được một sự nghiệp bận rộn và bắt đầu kiếm tiền. Khi ông mua cây cello ‘Duport’ của Stradivarius lừng danh, ông đã vay tiền từ người bảo trợ âm nhạc Paul Sacher; việc ông trả lại số tiền đó trong vòng một năm là một dấu hiệu thành công. Rostropovich và Vishnevskaya đã lấp đầy căn hộ ở Paris của họ bằng các tác phẩm nghệ thuật Nga, tạo thành một Hermitage thu nhỏ cũng như ảo giác được trở về Nga.

Những năm cuối đời

Công việc chỉ huy đã trở thành phần diện mạo quan trọng hơn bao giờ hết trong hoạt động hòa nhạc của Mstislav Rostropovich và dẫn đến việc ông được bổ nhiệm làm giám đốc âm nhạc của Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Washington. Ở cương vị đứng đầu dàn nhạc này, ông đã hân hoan trở về quê hương vào tháng 2 năm 1990. Chỉ một năm trước, ông đã ăn mừng sự sụp đổ của đế chế Xô Viết khi ngồi kéo đàn trước Bức tường Berlin đang sụp đổ theo đúng nghĩa đen. Tương tự, khi nền dân chủ mới thành lập ở Nga bị đe dọa vào năm 1991, ông đã bay tới Moscow để hỗ trợ tinh thần cho Boris Yeltsin. Đương nhiên, Rostropovich không bao giờ quên cây cello và tiếp tục đặt viết các bản concerto mới. Đến cuối sự nghiệp của mình, ông có thể tự hào vì đã trình diễn ra mắt gần 200 sáng tác cho cello.  Và ông vẫn duy trì mối quan tâm của mình với các nhạc sĩ trẻ bằng cách tổ chức vô số lớp masterclass. Tên tuổi của ông ngày càng gắn liền với nhạc mục Nga và những diễn tấu đầy uy quyền của ông về Tchaikovsky, Prokofiev và Shostakovich vẫn còn tồn tại trong các bản thu âm chính xác và thường thu trực tiếp.

Trong 15 năm cuối đời, Mstislav Rostropovich dành ngày càng nhiều thời gian hơn cho các quỹ từ thiện của mình ở Nga nhằm giúp đỡ trẻ em bị bệnh và hỗ trợ tài năng âm nhạc trẻ. Bất cứ khi nào nhận thấy sự đau khổ ông  phản ứng ngay lập tức, với ông chính trị không đóng vai trò gì. Ông đã tổ chức các buổi hòa nhạc để quyên góp tiền cho các nạn nhân của trận động đất ở Armenia, đến thăm những người tị nạn Azeri bị đuổi khỏi nhà của họ ở Nagorno-Karabakh. Người ta thường thấy ông ở hiện trường các thảm họa phân phát tiền bạc và sự an ủi như ông đã làm vào năm 2004 khi bay tới Beslan ở Bắc Ossetia sau vụ thảm sát trường học.

Rostropovich từng thú nhận với vẻ khiêm tốn thực sự:“Tôi chưa bao giờ đạt được hơn một nửa ý tưởng trong việc làm âm nhạc của mình”. Nhưng những thành tựu của ông rất đáng kể và bị chi phối bởi chủ nghĩa lý tưởng có tầm nhìn xa - dù là trong nghệ thuật hay trong công việc từ thiện của ông. Vào cuối đời, Rostropovich nói với tôi: ‘Tôi thật may mắn vì nhờ năng khiếu âm nhạc của mình, tôi có thể giúp đỡ mọi người’, đây rõ ràng không phải là những lời nói suông.

Rostropovich qua đời ở tuổi 80 vào ngày 27 tháng 4 năm 2007 và ông chắc hẳn đã yên nghỉ khi được thế nhân nhớ đến vì lòng nhân đạo cũng như tài năng chơi cello tuyệt đỉnh của ông.

29/3/2024, hai ngày sau sinh nhật ông

Trịnh Minh Cường dịch từ BBC Music

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...