Chuyển đến nội dung chính

FREDERIC CHOPIN, NHÀ THƠ CỦA CÂY ĐÀN PIANO

 Nicolas Chopin sinh năm 1771 ở Marainville Pháp. Năm 1887 khi mười sáu tuổi anh theo một người Ba Lan sang Ba Lan lập nghiệp. Vốn giỏi tiếng Đức nên anh làm gia sư cho các gia đình quý tộc ở đó. Năm 1802, Nicolas làm việc cho Nữ bá tước Ludwika Skarbek tại Żelazowa Wola. Ở đó anh gặp cô bảo mẫu Justyna Krzyżanowska và họ kết hôn vào năm 1806. Một năm sau, họ sinh  Ludwika ở Warsaw, năm 1810 họ sinh Fryderyk ở Żelazowa Wola vào ngày 1 tháng 3. Tuy nhiên do một sự nhầm lẫn nào đó nên giấy chứng nhận rửa tội được viết ở Brochów vào ngày 23 tháng 4 lại ghi Fryderyk sinh ngày 22 tháng 2. Vào mùa thu năm đó, gia đình Chopin chuyển đến Warsaw và Nicolas bắt đầu làm việc tại trường trung học Warsaw. Đầu tiên ông là một giảng viên rồi trở thành giáo sư sau một thời gian.

Ngôi nhà của Chopin luôn tràn đầy âm nhạc. Fryderyk lập tức thể hiện năng khiếu âm nhạc ngay khi được mẹ cho làm quen với piano từ rất sớm. Khi mới 7 tuổi, Fryderyk đã cho ra mắt sáng tác đầu tay là bản Polonaise Sol thứ và bắt đầu biểu diễn trong những gia đình quý tộc. Năm 1818, cậu tặng hai bản polonaise cho bà Maria Feodorovna, mẹ của Sa hoàng và vua Ba Lan, khi bà đến thăm Warsaw. Năm 1823, nhạc sư Józef Elsner bắt đầu dạy Fryderyk sáng tác. Từ năm 1826, ông dạy anh tại Trường Âm nhạc Trung tâm. Fryderyk hoàn toàn tự học piano. Anh được vào đại học mà không cần phải thi. Tài năng trẻ được cả xã hội ngưỡng mộ và coi như một người lấy khước nên Fryderyk thường xuyên được mời biểu diễn. Không chỉ ở Warsaw, anh còn đi biểu diễn tại các dinh thự ở các vùng khác và được tiếp xúc nhiều với âm nhạc dân gian.  Tháng 5 năm 1829, anh được nghe hai nghệ sĩ violin ở Warsaw - Karol Lipiński và huyền thoại Niccolò Paganini. Tài năng của Paganini đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho anh.

Trong khi lưu diễn ở Vienna thì Fryderyk  nhận được về cuộc nổi dậy ở Warsaw. Anh vô cùng đau lòng vì không thể tham gia chiến đấu chống Sa hoàng để giành độc lập cho quê hương. Anh từ bỏ kế hoạch đi du lịch Ý và đến Paris qua Salzburg, Bavaria và Württemberg. Khi ở Munich, anh đã chơi một buổi hòa nhạc thành công tại Hội Khuyến Nhạc. Và ở Stuttgart, anh đã vô cùng đau khổ khi nghe tin về sự thất bại của cuộc khởi nghĩa. Ngày 5 tháng 10 năm 1831, Fryderyk đã đến Paris và ở đó cho đến cuối đời.

Ở Paris Chopin được làm quen với nhiều nhà soạn nhạc hàng đầu như Rossini, Cherubini, Baillot, Kalkbrenner, Hiller, Mendelssohn, và Liszt. Kalkbrenner và nghệ sĩ cello gốc Ba Lan Ludwik Piotr Norblin đã giúp anh tổ chức buổi hòa nhạc đầu tiên ở Paris. Buổi hòa nhạc của anh đã diễn ra ở Salle Pleyel vào ngày 25 tháng 2 năm 1832. Ngoài biểu diễn anh cũng nhận dạy và sớm trở thành người thầy piano nổi tiếng.

Tháng 5 năm 1834, Chopin đi cùng Hiller đến Aachen để tham dự một lễ hội âm nhạc ở vùng Lower Rhine. Sau đó, anh đến chơi gia đình Wodziński ở Dresden. Anh đã dành rất nhiều thời gian với cô con gái út Maria. Họ đã yêu nhau say đắm và anh hứa sẽ quay lại vào năm sau. Sau đó, anh đến Leipzig, nơi anh và Mendelssohn chơi các tác phẩm của họ cho nhau nghe. Sau khi trở về Paris vào tháng 10, anh đã bị ốm rất nặng. Tuy nhiên đến tháng 12 thì anh đã khá hơn và đồng tổ chức một buổi gây quỹ cho những người nhập cư Ba Lan. Chopin đã tham gia các buổi hòa nhạc từ thiện, đặc biệt là các buổi hòa nhạc ủng hộ người Ba Lan. Tháng 7 năm 1836, anh gặp lại Teresa và Maria Wodzińska ở Mariánské Lázně. Chopin và Maria đã dành toàn bộ thời gian cho nhau và anh đã cầu hôn Maria. Sau đó, anh đến Leipzig gặp Schumann cùng Clara Wieck. Những lá thư từ Maria Wodzińska ngày càng lạnh nhạt và không hứa hẹn gì về tương lai

 Vào tháng 2 năm 1838, Chopin được mời đến cung điện Tuileries và anh chơi ngẫu hứng trước hoàng gia. Đó là khi tiểu thuyết gia George Sand  đã bước vào đời tư của Chopin. Cô quyết định quyến rũ anh bằng một bức thư có nội dung: 'On vous adore' (Em ngưỡng mộ anh), bức thư dài ba mươi trang sau này rất nổi tiếng. Trong đó cô thuyết phục anh nên quên đi ngọn lửa tình cũ của mình và chuyển tình cảm sang hướng mới. Đầu tiên Fryderyk không thích cô, nhưng rồi anh đã bị cô chinh phục. Vào mùa thu năm 1838, anh theo cô cùng các con riêng đến Mallorca. Đầu tiên họ sống trong một biệt thự gần Palma de Mallorca. Tuy nhiên chẩn đoán bệnh lao của Chopin và luật vệ sinh nghiêm ngặt của Tây Ban Nha đã buộc họ phải chuyển đến một tu viện Carthusian ở Valldemossa. Sau một thời gian hưng phấn do thiên nhiên và tình cảm của George Sand, thảm họa ập đến khi sức khỏe của Chopin bị giảm sút nghiêm trọng. Sau khi trở về Paris, anh không khỏe lại trong suốt mùa đông. Ngày 25 tháng 5 năm 1844 tin báo cha anh qua đời càng làm anh trở nên rất suy sụp.

Trong các tháng đầu năm 1845, tình trạng sức khỏe của Chopin càng giảm sút. Ngày 16 tháng 2 năm 1848, Chopin quyết định tham gia buổi hòa nhạc chung tại Salle Pleyel. Đó là các ca sĩ Molina di Mendi và Gustave Roger với các aria của Meyerbeer, nghệ sĩ violin Delphin Allard và Franchomme. Họ đã chơi Trio Mi trưởng của Mozart và Cello Sonata của Chopin nhưng không có phần đầu tiên. Chopin đã chơi một nocturne, barcarolle, một số etude, berceuse, một số prelude, các mazurka và valse. Khán giả chỉ là giới tinh hoa gồm hoàng gia, các quý tộc cùng một nhóm nghệ sĩ và bạn bè của Chopin. Đây là buổi biểu diễn cuối cùng của Chopin ở Paris.

Tháng 8, anh đến Scotland và nghỉ tại lâu đài Calder House gần Edinburgh. Nhưng đáng buồn khí hậu đã không giúp được gì cho anh. Anh yếu đến mức phải có người cõng lên cầu thang. Vào ngày 28 tháng 8, anh đã biểu diễn trước 1500 khán giả ở Manchester. Anh đã chơi một trong những ballad, berceuse và các sáng tác khác trên piano Broadwood. Ngày 16 tháng 11 anh trở về London. Mặc dù kiệt sức về thể chất và tinh thần, anh vẫn tham gia một buổi hòa nhạc từ thiện dành cho những người nhập cư Ba Lan. Bác sĩ Jean Cruveilhier chẩn đoán bệnh lao đã đến giai đoạn cuối và khuyên anh nghỉ ngơi.

Vào tháng 9 năm 1849, Chopin chuyển đến ngôi nhà số 12 quảng trường Vendôme. Ngày 7 tháng 10, cơn hấp hối bắt đầu, Chopin quyết định xưng tội và xức dầu lần cuối. Ngày 15 tháng 10, Delfina Potocka đến và hát cho Chopin theo yêu cầu của anh. Franchomme và Marcelina Czartoryska chơi cello sonata nhưng họ phải dừng lại vì bệnh nhân cảm thấy rất mệt. Teofil Kwiatkowski vẽ một bức tranh Chopin cùng chị và bạn bè của mình. Marcelina Czartoryska, Solange, Gutmann  và những người khác ở bên đến khi anh qua đời vào 2 giờ sáng ngày 17 tháng 10.

Ngày hôm sau, Clésinger đắp khuôn mặt và bàn tay Chopin, trong khi Kwiatkowski vẽ màu nước đầu Chopin. Bác sĩ khám nghiệm tử thi và lấy trái tim của Chopin ra. Theo di nguyện của Chopin, trái tim anh sẽ được đưa về quê hương và cơ thể sẽ được ướp. Tang lễ chính thức diễn ra vào ngày 30 tháng 10 tại Nhà thờ Thánh Madeleine. Dàn nhạc của Henry Reber chơi Hành khúc tang lễ của chính Chopin, Louis Lefébure-Wély chơi hai prelude Mi thứ và Si thứ trên đàn organ, Narcisse Girard  chỉ huy dàn nhạc và dàn hợp xướng Hiệp hội hòa nhạc cử hành Khúc Cầu hồn của Mozart. Lễ tang ở nghiã trang Cha Lachaise thực sự là lễ tang hoàng gia khi được chỉ đạo bởi Hoàng tử Adam Czartoryski và Meyerbeer. Tượng đài trên mộ được Clésinger điêu khắc do một ủy ban đứng đầu là  danh họa  Delacroix bảo trợ.  Theo di nguyện của Chopin, trái tim của anh  được chị  Ludwika mang về Warsaw  và được đặt trong Nhà thờ Holy Cross. 

Nhiều người Pháp, bách khoa thư Larousse là một ví dụ, nhận Chopin là người Pháp. Lý do của họ là bố ANH là người Pháp và ANH sống chủ yếu ở Pháp. Nhưng chính ông luôn chỉ nhận mình là người Ba Lan. Âm nhạc của ANH lại càng xác thực điều đó khi chất âm nhạc Ba Lan luôn hiện rõ trên mỗi nốt nhạc của ANH. Chopin sáng tác không nhiều với hơn 200 tác phẩm. Ngòai đại đa số trong đó viết cho piano, ANH còn viết một sô tác phẩm hòa tấu thính phòng và khoảng 20 ca khúc tiếng Ba Lan. Âm nhạc của ANH thấm đẫm chất nhạc dân tộc Ba Lan kết hợp tình cảm mãnh liệt của một người yêu nước thể hiện qua sự tương phản mạnh mẽ. Ngoài việc nâng tầm quốc tế các thể loại từ nhạc truyền thống Ba Lan như polonaise, mazurka, Chopin còn có những đóng góp quan trọng cho kỹ thuật diễn tấu piano và thể loại âm nhạc. Các prelude của Chopin không còn là khúc dạo đầu mà trở thành những tâm sự, hình tượng âm nhạc phức tạp hơn. Các etude của anh không chỉ đơn thuần là những khúc luyện tập mà còn là những tác phẩm hòa nhạc với chiều sâu âm nhạc giàu sức biểu cảm. Các pianist có thể đưa các etude của Chopin vào các chương trình hòa nhạc hay ghi âm mà không ngại bị bình luận là phô trương kỹ thuật. Vì các etude của anh ngoài đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện còn có “đất diễn”phong phú cho nghệ sĩ tha hồ diễn cảm chiều sâu như các tác phẩm hòa nhạc khác. Anh cũng làm cho các thể loại như nocturne, ballad, scherzo trở nên phổ biến hơn bao giờ hết.

Nhân ngày sinh của Chopin 1-3-2022.

Trịnh Minh Cường tổng hợp

Đăng trên Tạp chí Âm nhạc số 2- 2022

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...