Chuyển đến nội dung chính

 GUITAR HÀ NỘI THUỞ BAN ĐẦU

Ý đồ khai hóa người Việt của người Pháp đã đạt được những thành công nhất định vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Khi đó, trong  xã hội Việt nam đã bắt đầu xuất hiện tầng lớp tư sản. Tầng lớp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp) đã có lối sinh hoạt thành thị mới với nhiều tiện nghị theo văn minh Tây phương. Họ sang Pháp làm ăn và học hành. Họ ở nhà lầu, đi ô tô, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên:  thay đổi quần áo hàng năm theo mốt mới. Trong những ảnh hưởng từ văn hóa Pháp cũng có những yếu tố tích cực là những tư tưởng tiến bộ của cuộc Cách mạng Pháp. Những mặt tích cực đó đã tạo động lực để văn hóa người Việt phát sinh những nhu cầu mới. Những chuyển biến đầu tiên trong đời sống nghệ thuật của người Việt diễn ra trong văn học. Đó là phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn. Với âm nhạc thì giai đoạn trước 1937 được xem là giai đoạn chuẩn bị của Tân nhạc. Nhạc sĩ Trần Quang Hải gọi đây là "giai đoạn tượng hình".  Còn nhạc sỹ Phạm Duy cho rằng những năm đầu thập niên 1930 là "thời kỳ đi tìm nhạc ngữ mới".

Âm nhạc phương Tây đã theo những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Việt Nam. Đầu tiên là những bài thánh ca Ki-tô giáo của những nhà truyền giáo. Với mục đích truyền giáo, các linh mục Việt Nam cũng được học âm nhạc phương Tây. Tiếp đó, người dân được làm quen với nhạc nhà binh qua các đội kèn của quân đội Pháp. Tầng lớp giàu có ở thành phố còn được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây.

Từ đầu thế kỷ 20, các bài hát Âu - Mỹ được phổ biến mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vòng và những bộ phim câm có nhạc nền. Thời kỳ này, một số nhạc sĩ cải lương bắt đầu soạn lời Việt cho các nhạc phẩm Tây thường được gọi là "bài Tây theo điệu ta". Người tiêu biểu cho số đó là nghệ sĩ cải lương Tư Chơi, tức Huỳnh Thủ Trung. Ông đã viết các bài Tiếng nhạn trong sương, Hòa duyên và soạn lời Việt cho một vài ca khúc châu Âu thịnh hành khi đó để sử dụng trong các vở diễn sân khấu như: Marinella trong vở Phũ phàng, Pouet Pouet trong Tiếng nói trái tim, Điệu tango Huyền bí (Tango mystérieux) trong Đóa hoa rừng, La Madelon trong Giọt lệ chung tình... Nghệ sĩ Bảy Nhiêu cũng có một nhạc phẩm là Hoài tình rất được ưa chuộng.

Năm 1930, trong thời gian bị tù ở Côn Đảo, nhạc sĩ Đinh Nhu đã sáng tác ca khúc Cùng nhau đi Hồng binh. Theo nhạc sỹ Trần Quang Hải, Cùng nhau đi Hồng binh là ca khúc tân nhạc đầu tiên của Việt Nam.

Không chỉ các nghệ sĩ, trong giới thanh niên yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát được yêu thích của Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean .... Những nghệ sĩ sân khấu như Ái Liên, Kim Thoa, tài tử Ngọc Bảo… đã được các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka mời ghi âm. Khoảng thời gian từ 1935 đến 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp đã được phổ biến rộng rãi với lời Việt được soạn bởi nhà báo trẻ Mai Lâm và những tác giả vô danh khác.

Việc phổ biến những ca khúc mới là động lực mạnh mẽ để giới trẻ yêu nhạc thời đó học chơi các nhạc cụ phương Tây: mandolin, guitar, violin và piano. Sự khởi đầu của nền tân nhạc Việt nam đã tạo ra một số lượng thính giả sẵn sàng đón nhận những luồng gió mới của âm nhạc. Cây đàn guitar bước đầu chinh phục người yêu nhạc Việt nam bằng cây guitar hawaii, có lẽ do âm thanh của nó khá gần gũi với âm thanh cây đàn bầu của người Việt. Phần lớn các nghệ sỹ guitar thế hệ đầu tiên ở Hà nội đều tập chơi cây đàn này trước khi đến với cây guitar espagnole (guitar Tây Ban Nha, guitar mộc, guitar thùng, guitar cổ điển nhưng lúc đó mới chỉ dùng dây kim loại). Với một người mới chỉ biết guitar hawaii hẳn sẽ khó cưỡng nổi sức hấp dẫn của cây guitar espagnole  khi được trực tiếp nghe âm thanh cây đàn này. Nó có những ưu điểm tuyệt vời về hòa âm cũng như hình thức trình tấu đa dạng: độc tấu, hòa tấu với nhạc cụ khác hay với thanh nhạc. Có người muốn chơi ắt sẽ có thầy. Những người thầy dạy guitar đầu tiên ở Việt nam là những người nước ngoài mà chủ yếu là những nghệ sĩ guitar nghiệp dư. Đó là những cố đạo người Âu, những nghệ sỹ nước ngoài trong các quán bar và cả những thương gia (như người thầy đầu tiên của danh cầm Tạ Tấn). Người ta nhắc đến tên tuổi của những người thầy guitar thời đó như thầy Benito người Philippines, Nàn Hếnh (William Chấn) người Hoa… Theo lời kể của những nghệ sỹ thời đó thì trong số những người thầy guitar đầu tiên đó thầy Benito là nghệ sỹ chuyên nghiệp duy nhất. Trong số học sinh của thầy Benito có hai người đã thành “cây đa cây đề” của guitar Hà nội là Nguyễn Thiện Tơ và Tạ Tấn. Những học sinh guitar người Việt đầu tiên đương nhiên lại trở thành những người thầy guitar người Việt đầu tiên. Thật tiếc là không thể có thêm thông tin về các thầy Benito và Nàn Hếnh!

Nhu cầu về nhạc cụ của chính những người Âu ở Việt nam đã tạo động lực cho ngành kinh doanh nhạc cụ khởi động. Đầu tiên là những cửa hàng nhạc cụ và thiết bị nghe nhạc của người Pháp. Sau đó là những cửa hàng của người Việt mà nổi tiếng nhất là cửa hàng nhạc cụ của ông Trần Đình Thư ở phố Hàng Bông.  Đã bán được nhạc cụ,  tất yếu sẽ có hậu mãi. Đó là sửa chữa nhạc cụ cho khách hàng sau một thời gian sử dụng. Đó chính là cơ hội cho những người thợ chế tác nhạc cụ người Việt vốn khéo tay và có truyền thống chế tác nhạc cụ dân tộc lâu đời, đặc biệt là những nghệ nhân làng Đào xá – làng nghề chế tác nhạc cụ lâu đời ở Hà nội. Các cửa hiệu nhạc cụ của người Việt cũng như của người Tây nhận nhạc cụ cần sửa của khách hàng rồi thuê lại những nghệ nhân người Việt sửa chữa. Chẳng bao lâu sau, những nghệ nhân người Việt đã bắt đầu chế tác được những cây mandoline, guitar và violin đầu tiên theo những cây đàn mẫu bằng kiến thức do họ tự mày mò tìm hiểu. Ngoài việc kinh doanh và sửa chữa, họ còn mày mò tìm hiểu cách chơi những nhạc cụ đó để hiểu rõ hơn về cây đàn mà họ kinh doanh và chế tác. Vì vậy, trong số những người kinh doanh nhac cụ ở Hà nội đã xuất hiện một trong những người thầy guitar người Việt đầu tiên là thầy Trần Đình Khuê. Ông là là con cụ Trần Đình Thư - chủ cửa hiệu bán và sửa chữa nhạc cụ ở phố Hàng Bông nói trên. Không có tài liệu nào viết về thầy Trần Đình Khuê nhưng có thể chắc chắn rằng trong quá trình kinh doanh nhạc cụ, sự hấp dẫn của cây guitar đã thôi thúc ông tìm hiểu cách chơi cây đàn này. Việc thường xuyên giao lưu với người Pháp trong công việc kinh doanh cũng giúp ông có những tài liệu, thông tin cần thiết để khám phá cây guitar và việc trở thành người thầy dạy guitar như là một kết quả tất yếu. Học trò nổi bật của thầy Trần Đình Khuê là Nguyễn Thiện Tơ. Năm 1933, thầy Trần Đình Khuê nhận một cậu học trò 12 tuổi là Nguyễn Thiện Tơ. Thiện Tơ tiến bộ rất nhanh và được thầy cho phép biểu diễn song tấu cùng thầy tại Đài phát thanh Péninière gần Trường Bưởi. Sau đó ít lâu, Thiện Tơ cùng bạn là Bạch Thái Chín, con doanh nhân Bạch Thái Bưởi, chuyển sang học thầy Benito ở phố Văn Miếu,. Do học phí của thầy Benito quá cao (khoảng 5 đồng Đông Dương, thời đó có thể mua được gần 170 kg gạo) nên nghệ sỹ guitar trẻ Thiện Tơ đã mở lớp dạy guitar để có thêm tiền theo học thầy Benito. Tuy nhiên thu nhập cả tháng từ việc dạy chỉ đủ trả học phí cho thầy một giờ nên Thiện Tơ phải tính chuyện lập nhóm tự học. Ý tưởng của ông được các bạn đàn guitar là Đỗ Chí Khang ở Phố Huế, Ngọc Bích tán thưởng. Và nhóm guitar đầu tiên ở Hà nội đã hình thành. Mọi người cùng sáng tác, tập đàn và thỉnh thoảng được mời biểu diễn ở rạp chiếu bóng Bạch Mai. Ngoài những buổi biểu diễn, ông vẫn chăm chỉ luyện tập, tìm tòi sách vở, tài liệu và dạy học sinh. Trong số những học sinh guitar của thầy Thiện Tơ có một số đã thành danh với cây  guitar như Dzoãn Mẫn, Nguyễn Văn Quỳ và nổi tiếng nhất là Đoàn Chuẩn. Nguyễn Thiện Tơ là một trong số ít nghệ sỹ guitar sử dụng thành thạo ba loại guitar: guitar Hawaii, guitar espagnole và guitar điện. Trong các buổi biểu diễn hoặc ghi âm ông đều thành công khi độc tấu cũng như hòa tấu nhạc jazz hoặc đệm cho ca sỹ. Ông thường xuyên tham gia biểu diễn phát sóng trên một số đài phát thanh với nhóm Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Nguyễn Chí Nhường, Nguyễn Trần Dư. Trong nhóm này, nổi bật hai nhạc sỹ với hai xu hướng sáng tác thu hút được sự chú ý của giới âm nhạc lúc đó:

-         Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.

-         Sáng tác hoàn toàn theo phong cách âm nhạc phương Tây do Dương Thiệu Tước chủ trương. Ông viết trên báo Việt Nhạc số 5 – 16/10/1948: "Nếu đã có nhà văn Việt Nam viết văn bằng tiếng Pháp thì nhà soạn nhạc Việt Nam cũng có thể viết được những bản nhạc có âm điệu Tây phương".

Nhạc sỹ Dương Thiệu Tước (19151995) quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông nay thuộc Hà Nội. Gia đình ông là một  gia đình Nho học truyền thống. Ông là cháu nội cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, nguyên Đốc học Nam Định – người mà khi mất đã khiến người bạn ông là Tam nguyên Yên đổ Nguyễn Khuyến xúc động với bài thơ  Khóc Dương Khuê. Năm 1954, Dương Thiệu Tước vào miền Nam sinh sống. Tại Sài Gòn, ông được mời làm giáo sư dạy guitar tại trường Quốc gia Âm nhạc mãi đến khi thống nhất đất nước. Thầy Dương Thiệu Tước đã tham gia đào tạo thế hệ những nghệ sỹ guitar đầu tiên của Sài gòn như nghệ sỹ guitar Võ Tá Hân.

Nhạc sĩ Dzoãn Mẫn (1919-2007) ngoài ca khúc nổi tiếng  Biệt ly, ông còn viết giáo trình xướng âm và  cuốn Tự học guitar. Cuốn tự học guitar của ông tuy còn thô sơ nhưng đã góp phần đáp ứng nhu cầu học guitar ở giai đoạn vô cùng hiếm tài liệu về guitar này

Nói về các lớp guitar ở Hà nội thời kỳ này không thể không nhắc đến thầy Hoàng Giác. Ông đã làm say mê nhiều thế hệ thính giả với ca khúc Ngày về, Mơ hoa nhưng không mấy ai biết ông còn là một người thầy guitar. Hoàng Giác học guitar hawaii từ người anh trai. Đầu tiên ông dạy nhạc ở trường Dũng Lạc gần Nhà thờ Lớn. Khi nhận thấy nhiều người có nhu cầu học guitar hawaii  nên ông mở lớp tại nhà riêng. Những đồng nghiệp cùng thời với ông còn có các thầy Nguyễn Văn Quỳ, Ngọc Bích và Nguyễn Túc. Nhạc phẩm các ông thường chơi và biểu diễn khi đó là One day. Giáo trình để dạy  guitar Hawaii  là cuốn sách của Jắc-cô-oa-si(không tìm được nguyên ngữ). Về sau, Hoàng Giác chuyển sang chơi và dạy guitar espagnole.

Tài liệu giảng dạy của những người thầy guitar cổ điển đầu tiên của Hà nội không có gì nhiều ngoài hai cuốn Methode de Guitare (Phương pháp guitar) của F. CarulliMethode de Guitare của  M. Carcassi. Ngoài ra họ có thể mượn được một vài đĩa guitar cực kỳ hiếm hoi từ những người quen. Trong hai cuốn giáo trình nói trên chỉ có các bài tập mà có rất ít chỉ dẫn chi tiết về kỹ thuật chơi đàn nên họ hoàn toàn phải tự mò mẫm để các kỹ thuật chơi đàn. Trong điều kiện như vậy, vốn ngoại ngữ vững vàng sẽ là công cụ cực kỳ hiệu quả để “săn lùng” những kiến thức về kỹ thuật chơi guitar. Ví dụ điển hình về hiệu quả nói trên là nghệ sỹ Phạm Ngữ. Ông sinh năm 1920 ở Hải phòng. Nhờ giỏi ngoại ngữ chàng trai Phạm Ngữ  lân la làm quen với các nghệ sỹ nước ngoài ở các bar để học hỏi. Đầu tiên anh đã chơi được mandoline bằng cách tự học. Có lần, anh được nghe âm thanh của cây guitar do một thủy thủ chơi và lập tức bị mê hoặc. Anh làm quen với thủy thủ đó rồi nhờ mua hộ đàn và sách học guitar. Ít lâu sau, người thủy thủ đó quay lại Hải phòng và trao cho anh một cây guitar và hai cuốn Phương pháp học guitar của Carulli và Carssi. Anh đã tự tập guitar theo hai cuốn sách đó mà chẳng mất bao nhiêu thời gian. Anh còn tự học chơi được accordeon, banjo và piano. Anh có may mắn lớn khi gặp và theo học một người thầy dạy guitar người Pháp. Việc sử dụng thành thạo 4 ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức và Trung đã giúp  anh giao lưu thường xuyên với các thuỷ thủ bốn phương vốn có nhiều người biết chơi guitar. Chẳng mấy chốc Phạm Ngữ đã có vốn kiến thức âm nhạc guitar vững vàng và bắt đầu nhận dạy cho những người yêu thích guitar. Trong thời kỳ quân đội Nhật chiếm đóng Hải Phòng, một sỹ quan Nhật còn cho xe tay đưa đón Phạm Ngữ để dạy guitar cho các con tại nhà. Ở một thành phố nhỏ bé như Hải phòng, những tài năng âm nhạc chẳng mấy chốc đã thành những người bạn thân. Đầu tiên Phạm Ngữ kết thân với  Hoàng Quý. Sau đó họ lại có thêm Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân và Hoàng Phú (tức Tô Vũ). Năm 1939 họ thành lập nhóm Đồng Vọng với Hoàng Quý là trưởng nhóm để cùng nhau sáng tạo và truyền bá tân nhạc trong công chúng. Phạm Ngữ còn viết nhạc nền cho kịch nói. Có lần ông được vua Bảo Đại, vốn yêu thích và cũng chơi được guitar, mời lên thuyền rồng để biểu diễn phục vụ Hoàng gia.

Năm 1956, một bước ngoặt cho Phạm Ngữ cũng như cho guitar Hà nội khi ông được giao trọng trách là Trưởng bộ môn guitar Trường Âm nhạc Việt nam khi Trường khai giảng khoá đầu tiên. Nếu việc Trường âm nhạc Việt nam khai giảng khóa đầu tiên có bộ môn guitar là bước ngoặt quan trọng cho nền âm nhạc guitar Hà nội trong lĩnh vực đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp, thì cuốn sách học guitar đầu tiên của Hà nội - Tự học guitar của Phạm Ngữ -  xuất bản năm 1961 là bước ngoặt quan trọng cho việc phổ cập cây đàn guitar trong công chúng. Sau khi giải phóng Thủ đô năm 1954,  phong trào ca hát quần chúng của Hà nội hoạt động rất sôi nổi với sự tham gia đắc lực của cây đàn guitar đã dần dần tạo thành một làn sóng học chơi guitar. Làn sóng đó tất nhiên còn lan sang các tỉnh thành khác. Nhưng không phải ai cũng có điều kiện để đến lớp vì chỉ có ở Hà nội mới có các lớp guitar. Việc cuốn sách tự học guitar ra đời sẽ tạo cơ hội cho rất nhiều người muốn khám phá cây guitar trong bối cảnh sách guitar cực kỳ hiếm hoi. Điều đó lý giải cho việc cuốn sách này được tái bản 4 lần và là cuốn sách nhạc có số lượng xuất bản lớn nhất của Nhà xuất bản âm nhạc. Con trai ông - nghệ sỹ guitar Phạm Hồng Phương – kể rằng: Một lần ông vào hiệu sách Ngoại văn hỏi mua chính cuốn của mình thì cô bán hàng trả lời: “Sách đã hết từ lâu mà chưa có sách mới, cuốn trên giá là sách mẫu để trưng bày thôi”. Ông là người rất coi trọng kỹ năng thị tấu là kỹ năng không thể thiếu đối với một nghệ sỹ chuyên nghiệp. Ông còn chuyển soạn nhiều dân ca các vùng miền cho guitar. Tuy là người tự học nhưng ông rất coi trọng kỹ năng thị tấu. Một số học trò và nghệ sỹ guitar vẫn thường kể về ấn tượng khi chứng kiến ông thị tấu một mạch tuyển tập  Các Tổ khúc soạn cho đàn lute (Lute Suites) của nhà soạn nhạc vĩ đại J. S. Bach như đã tập từ trước, mặc dù ông chưa từng xem tuyển tập đó bao giờ. Phạm Ngữ có nhiều học trò  đều trở thành những người thầy guitar trong các trường âm nhạc chuyên nghiệp. Trong số đó, người học trò chắc làm ông mãn nguyện nhất là con trai ông – Phạm Hồng Phương. Phạm Hồng Phương sinh năm 1964. Cậu bé Phương bắt đầu những nốt nhạc đầu tiên với bố mình từ năm lên 9 với cây mandoline và guitar hawai do ngón tay còn ngắn nên chưa được học guitar mặc dù rất thèm muốn. Năm 1979 cậu trúng tuyển vào hệ trung cấp cơ bản 4 năm của Nhạc viện Hà Nội. Khi vào phòng thi, thầy Tạ Tấn giới thiệu : đây là con của ông Vua guitar Việt Nam. Học đến năm trung cấp 3 đã được thầy Tấn cho phép lên lớp trợ giảng. Năm 1983 sau khi tốt nghiệp trung cấp cơ bản, anh về làm giảng viên guitar ở trường Cao đẳng Nhạc-Họa Trung ương (nay là Đại học sư phạm nghệ thuật trung ương). Năm 1985 trở thành giảng viên guitar của Nhạc viện Hà Nội sau khi vượt qua kỳ thi tuyển cùng các nghệ sỹ Phạm văn Phúc, Nguyễn Tỵ và Ngô Văn Toán. Sau khi dạy ở Nhạc viện 1 năm anh lại trở về trường Cao đẳng Nhạc-Họa Trung ương cho đến nay. Hiện anh là Trưởng khoa Thanh nhạc - Nhạc cụ của trường.

Guitar Hà nội lại được tăng cường thêm nhân tài khi nghệ sỹ Tạ Tấn được mời về giảng dạy ở Trường âm nhạc Việt nam. Thêm thầy guitar ở một trường chuyên nghiệp đồng nghĩa với việc gia tăng số lượng nghệ sỹ guitar tốt nghiệp hàng năm. Như vậy, những người yêu guitar sẽ dễ dàng hơn trong việc “tầm sư học đàn”. Số lượng người chơi nghiệp dư gia tăng sẽ là một trong những điều kiện để trình độ âm nhạc guitar tăng dần theo thời gian. Những biến đổi về chất cũng còn phải chờ những điều kiện khách quan như tài liệu, đĩa nhạc guitar và một yếu tố thiết yếu để những nghệ sỹ tự học nâng lên tầm cao mới là chất lượng cây đàn. Trong khoảng những năm đầu thập kỷ 60, ở Hà nội bắt đầu xuất hiện những cây guitar lắp dây nylon đầu tiên. Đó là những cây đàn của Tiệp Khắc (CH Séc) và CHDC Đức  được bày bán ở Cửa hàng Bách hóa trên phố Tràng Tiền. Các nghệ sỹ guitar bắt đầu cảm nhận được âm thanh của guitar cổ điển thực thụ mà trước đó họ chỉ được nghe qua đĩa mà chưa tự tay mình tạo ra. Tuy nhiên cũng chỉ có rất ít nghệ sỹ có được diễm phúc sử dụng những cây đàn đó. Những cây đàn nội khi đó lại chưa đạt được chất lượng để lắp dây nylon. Sự thiệt thòi của số đông những người chơi guitar lại là động lực để các nghệ nhân chế tác guitar lao tâm khổ tứ nghiên cứu nâng cao chất lượng đàn của họ để có thể lắp được dây nylon.

Sự thiếu thốn về tài liệu guitar đã được nhạc sỹ Tạ Tấn bù đắp bằng một số lượng lớn các bài dân ca các vùng miền do ông chuyển soạn. Học sinh guitar không những có nhiều bài hơn để tập mà họ còn có được quốc tịch âm nhạc khi tập các bản nhạc soạn từ nhạc cổ truyền Việt nam. Ví dụ về tầm quan trọng của quốc tịch âm nhạc đối với một nhạc sỹ thể hiện rất rõ qua trường hợp của nghệ sỹ Đặng Ngọc Long ở Đức và Nguyễn Thế An ở Canada. Mặc dù họ là những nhạc sỹ guitar Việt nam “trụ” được ở những đất nước có trình độ âm nhạc rất cao nhưng họ vẫn có những tác phẩm mang đậm chất Việt được phát hành sách, đĩa và phát thanh. Họ thực sự là những sứ giả của guitar Việt nam ở phương trời Âu - Mỹ.

Hai bậc thầy Phạm Ngữ và Tạ Tấn đã xây dựng cho guitar Hà nội một nền móng vững chắc. Đó là những thính giả nghe guitar, một số lượng lớn âm nhạc Việt nam cho guitar, và quan trọng hơn là những nghệ sỹ - người thầy guitar và họ tiếp tục đưa guitar Hà nội lên những tầng cao mới. Nỗ lực của những bậc thầy guitar cũng đã được Nhà nước ghi nhận bằng việc phong tặng danh hiệu Nghệ sỹ ưu tú cho thầy Tạ Tấn. Tuy nhiên trong thời gian này, guitar đối với số đông trong giới âm nhạc chuyên nghiệp vẫn chỉ là cây đàn mang tính quần chúng. Việc đào tạo guitar trong các trường chuyên nghiệp chủ yếu về công năng đệm hát. Không phải họ thiếu tài năng mà vì họ hầu như không có tài liệu và thông tin gì về guitar.

2011, Trịnh Minh Cường 

Đăng trong Nghệ thuật trình tấu guitar cổ điển ở Hà Nội

NXB âm nhạc 2012

2020, biên tập lại

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...