Trong các album ca khúc nghệ thuật do các siêu danh ca như Dietrich Fischer-Dieskau, Victoria de los Ángeles, Elisabeth Schwarzkopf trình diễn, hầu như nghệ sĩ piano đệm cho họ luôn là Gerald Moore.
Gerald Moore chào đời ngày 30 tháng 7 năm 1899 ở Watford, Hertfordshire, là con cả trong bốn người con của David Frank Moore, chủ một công ty quần áo nam, và bà Chestina, nhũ danh Jones. Moore được học piano từ một giáo viên địa phương. Mặc dù thể hiện năng khiếu âm nhạc bẩm sinh với cao độ hoàn hảo, Moore vẫn chỉ là một học sinh piano bất đắc dĩ. Về sau ông kể rằng mẹ phải lôi ông đến bên cây piano, "một đứa trẻ bất mãn, hay sụt sùi, tôi đã không hấp thụ được âm nhạc vào mình cho đến tận giữa tuổi đôi mươi."
Khi Moore 13 tuổi, gia đình di cư đến Toronto, Ontario, Canada. Ở đó cậu học đàn với nghệ sĩ piano Michael Hambourg, một học trò của Anton Rubinstein. Moore đã bị phân tâm khỏi việc học nhạc của mình do bị thu hút mạnh mẽ bởi Công giáo Anh. Đã có lúc anh nghĩ rằng mình có ơn trên gọi làm linh mục. Năm 1915, thầy Hambourg qua đời. Sau đó con trai ông, nghệ sĩ cello Boris Hambourg, đã chọn Moore làm người đệm đàn trong chuyến lưu diễn bốn mươi buổi hòa nhạc ở miền tây Canada. Trở về Toronto sau chuyến lưu diễn, Moore thành nghệ sĩ organ tại Nhà thờ Anh giáo St. Thomas và nghệ sĩ organ điện ảnh chuyên chơi nhạc nền cho các bộ phim câm. Mặc dù công việc này được trả lương khá nhưng Moore lại miêu tả đàn organ rạp chiếu phim là một "cỗ máy tra tấn", "chia sẻ vị trí đáng kinh hoàng cùng kèn saxophone, harmonica và concertina." Cha mẹ anh cho rằng Toronto không phải là nơi để con mình xây dựng sự nghiệp nghệ sĩ piano như họ mong đợi. Họ gửi Moore trở lại Anh ở cùng người họ hàng ở London và học đàn với Mark Hambourg, cũng là con của thầy Michael Hambourg. Khi học với Mark Hambourg, Moore kiếm được tiền bằng nghề đệm đàn. Landon Ronald, giám đốc Trường Âm nhạc Guildhall, đã nghe anh chơi trong một buổi độc diễn và khuyên anh nên theo đuổi sự nghiệp nghệ sĩ đệm đàn. Moore đi lưu diễn với tư cách là nghệ sĩ đệm đàn cho ca sĩ Vladimir Rosing cùng với nghệ sĩ piano Myra Hess ở miền bắc nước Anh vào cuối năm 1922.
Năm 1921, Moore thực hiện bản thu âm đầu tiên cùng với nghệ sĩ violin Renée Chemet cho His Master's Voice (HMV). Họ đã cùng nhau thu âm thêm một số album, nhưng Moore thấy thích đệm cho ca sĩ hơn là chơi song tấu cùng các nghệ sĩ khí nhạc. Ông thường xuyên thu âm với Peter Dawson vào đầu những năm 1920 và cùng nhau đi lưu diễn ở Anh. Chính Dawson đã giới thiệu ông với giọng nam cao John Coates, người sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến sự nghiệp của Moore. Moore tiết lộ phần lớn thành công ban đầu của mình nhờ mối quan hệ hợp tác kéo dài 5 năm với Coates, người mà Moore tin là đã biến mình từ một người đệm đàn thờ ơ trở thành một nghệ sĩ độc tấu nhạy cảm với âm nhạc và đồng thời là một đối tác bình đẳng khi đệm cho ca sĩ. Một người có ảnh hưởng khác, nổi bật trong hồi ký của Moore, là nghệ sĩ piano Solomon, người có kỹ thuật mà Moore ngưỡng mộ và học hỏi.
Vào cuối những năm 1930, Moore đã nổi tiếng như một nghệ sĩ chuyên đệm đến nỗi Myra Hess đã mời ông đến nói chuyện về nghề nghiệp của mình tại một trong những buổi hòa nhạc ủa cô tại Phòng trưng bày Quốc gia. Nghệ sĩ piano Joseph Cooper đã viết về nhưng buôi nói chuyện này:"Ông ấy đã bộc lộ cảm giác về thời gian bằng lời nói mà bất kỳ diễn viên hài chuyên nghiệp nào cũng có thể tự hào. Sự pha trộn độc đáo giữa trí thông minh và trí tuệ của ông không chỉ làm hài lòng những người am hiểu mà còn chinh phục được những người bình thường đã không biết rằng âm nhạc cổ điển có thể thú vị thế nào." Cuốn sách đầu tiên của Moore, Người đệm đàn Không xấu hổ (The Unshaming Accompanist, 1943), bắt nguồn từ những cuộc nói chuyện này.
Moore được ghi nhận là người đã có nhiều đóng góp để nâng cao vị thế của người đệm đàn từ vai trò phụ trợ lên vai trò của một đối tác nghệ thuật bình đẳng. Dietrich Fischer-Dieskau đã viết trong phần giới thiệu ấn bản tiếng Đức của cuốn Người đệm đàn Không xấu hổ: "Không còn cái bóng nhợt nhạt đó trên bàn phím nữa; anh ấy luôn ngang hàng với bạn diễn của mình". Moore đã dũng cảm bảo vệ vị thế nghệ thuật này của mình, phàn nàn khi những người đệm đàn mà anh ngưỡng mộ không được ghi nhận tên tuổi trong buổi hòa nhạc. Ông đã trích dẫn với vẻ không đồng tình lời nhận xét của một ca sĩ đối với Coenraad V Bos, một người đệm đàn thuộc thế hệ trước, "Hôm nay chắc hẳn anh đã chơi rất tốt vì tôi đã không để ý đến anh."
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh cãi về việc liệu ông có thành công trong việc thuyết phục giới lãnh đạo Anh vào thời của ông về vị thế của nghệ thuật đệm đàn của ông hay không. Ví dụ, trong khi các nhạc trưởng và ca sĩ nổi tiếng trong nhà hát nhạc kịch Anh có xu hướng được phong tước hiệp sĩ, thì vào năm 1954, Moore chỉ được phong làm Tư lệnh của Huân chương Đế quốc Anh (CBE), một giải thưởng được xếp hạng thấp hơn hiệp sĩ. Moore tuyên bố nghỉ hưu vào năm 1967 với một buổi hòa nhạc chia tay cùng ba ca sĩ mà ông đã gắn bó từ lâu: Dietrich Fischer-Dieskau, Victoria de los Ángeles và Elisabeth Schwarzkopf. Buổi hòa nhạc nổi tiếng này diễn ra tại Royal Festival Hall ở London và được EMI thu âm rồi phát hành lại vào năm 1987 với tên CDC 749238. Tôi đã may mắn gặp và mua được bộ đĩa này. Buổi hòa nhạc kết thúc bằng tiết mục Moore chơi solo ca khúc An die Musik của Schubert chuyển soạn cho piano solo. Ông thực hiện bản thu âm phòng thu cuối cùng của mình vào năm 1975. Trong hồi ký, Moore viết rằng vai trò của ông không cần thiết tại Fesstival Aldeburgh của Benjamin Britten - "vì thiên tài chủ trì ở đó là người đệm đàn vĩ đại nhất thế giới." Vào năm 1967, nhà phê bình âm nhạc chính của tờ The Times, William Mann, cho rằng vị trí quan trọng đó thuộc về Moore: "người đệm đàn vĩ đại nhất thời đại ông, và có lẽ của mọi thời đại." Năm 2006, tạp chí Gramophone mời các nghệ sĩ đệm đàn nổi tiếng ngày nay chọn "nghệ sĩ chuyên nghiệp của các nghệ sĩ chuyên nghiệp" và những người chiến thắng chung cuộc là Britten và Moore.
Nhận xét
Đăng nhận xét