Chuyển đến nội dung chính

CỦA ĐỂ DÀNH QUÝ GIÁ CHO GUITAR CỦA NHÀ SOẠN NHẠC VĨ ĐẠI

 Trong các nhạc cụ dây, guitar hình thành và phát triển muộn nhất. Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, guitar mới có thêm dây thứ 6 như ngày nay trong khi các nhạc cụ dây khác đã khá hoàn chỉnh. Đó là một thiệt thòi rất lớn vì guitar không được các bậc thầy lớn viết nhạc dành cho nó. Vì thế âm nhạc cho guitar thường chỉ do các nhà soạn nhạc là nghệ sĩ guitar viết. Phải đến cuối thế kỷ XIX, guitar mới được các nhà soạn nhạc chuyên nghiệp quan tâm sau khi họ đã nhận ra guitar không chỉ là nhạc cụ để chơi bè đệm mà còn có khả năng diễn tấu phong phú như các nhạc cụ thính phòng khác.

Trước khi thành guitar 6 dây như ngày nay, có hai tiền thân của guitar khá phổ biến ở châu Âu là vihuela ở Tây Ban Nha và lute ở các nước khác. Đó là hai nhạc cụ có cấu tạo khá giống guitar với 4 hoặc 5 dây kép. Ở thời Phục hưng, các nghệ sĩ - nhà soạn nhạc vihuela và lute cũng là những nhà soạn nhạc hàng đầu châu Âu khi đó. Đó là John Downland (1563 - 1626) ở Anh, Luis de Milan (khoảng 1500 - 1561), Luis de Narvaez (khoảng 1526 - 1549), Alonso de Mudarra (1510 - 1580) ở Tây Ban Nha. Trong thời Baroque, một số nhà soạn nhạc đã đưa lute vào các sáng tác của mình như một nhạc cụ hoà tấu. Đặc biệt, Antonio Vivaldi còn viết một concerto cho lute và dàn nhạc dây.

Trong thời gian J. S. Bach sống ở Leipzig, đàn lute rất phổ biến ở đó, đặc biệt trong giới sinh viên. Họ thường tụ tập thành các nhóm hát rong với đàn lute và các nhạc cụ dây và hơi. Họ biểu diễn các khúc nhạc chiều (serenade), nhạc đêm(nachtmusik) ở hè phố trước cửa nhà họ hoặc nhà các gia đình quyền quý. Đó chính là cơ hội để đàn lute lọt vào mắt xanh của Bach. Bach hầu như không bỏ sót nhạc cụ nào và thường chuyển soạn tác phẩm của mình cho các nhạc cụ khác nhau. Có thể dễ dàng nhận ra điều này khi nghe các concerto cho cembalo (harpsichord, clavecin) và dàn nhạc của ông. Hầu hết các violin concerto đều được chuyển soạn thành cembalo concerto. Và Bach cũng dùng đàn lute như một nhạc cụ hoà tấu trong các tác phẩm lớn. Hơn thế nữa, ông còn viết cho lute độc tấu.  

Các tác phẩm cho lute độc tấu của Bach gồm 3 suite: BWV 995, 996, 997, Prelude BWV 999, Fugue BWV 1000, Prelude Fugue và Allegro BWV 998, Suite BWV 1006a. Fugue BWV 1000 được Bach chuyển soạn từ Fugue trong sonate cho violin không bè đệm (độc tấu) BWV 1001. Các guitarist thường chơi Prelude BWV 999 và Fugue BWV 1000 thành một cặp. Cách diễn tấu này khiến thính giả dễ liên tưởng đến tập The Well Tempered Clavier (Bình quân luật) của Bach. Tập nhạc này gồm 48 cặp prelude và fugue. Prelude BWV 999 cũng có phiên bản cho đàn phím. Trong 3 suite nói trên thì Suite BWV 995 được Bach chuyển soạn từ Suite BWV 1011 viết cho cello không bè đệm (độc tấu), Suite BWV 1006a chuyển soạn từ Partita (một tên gọi khác của Suite – tổ khúc) BWV 1006 viết cho violin độc tấu, Suite BWV 997 còn được Bach chuyển soạn cho flute song tấu cùng cembalo. Prelude  Fugue và Allegro BWV 998 là một trường hợp đặc biệt khi tác phẩm là sự kết hợp của 3 phần như các triosonate viết cho organ, nhưng tiêu đề được ghép từ tiêu đề của 3 phần. Trong các sáng tác của Bach, ta thường gặp các tác phẩm có tiêu đề ghép bởi 2 phần như các cặp prelude và fugue, toccata và fugue, fantasia và fugue.

Trong các tổ khúc cho nhạc cụ dây của Bach, các tổ khúc cho lute giống các tổ khúc cho cello khi đều bắt đầu bằng prelude. Trong 3 tổ khúc cho violin, chỉ có tổ khúc BWV 1006 bắt đầu bằng prelude. Chính tổ khúc này được Bach chuyển soạn cho lute - BWV 1006a. Hai tổ khúc còn lại cho violin đều bắt dầu bằng allemande. Các tổ khúc cho lute có phần nổi bật là fugue. Trong hai tổ khúc BWV 997 và BWV 998, fugue là một chương riêng có quy mô khá lớn và là chương trọng tâm của cả tổ khúc. Trong hai tổ khúc BWV 995 và BWV 996, phần fugue nhỏ hơn. Trong một số ấn bản của hai tổ khúc này, nhà biên tập xếp fugue như phần sau của prelude. Các chương khác đều là các vũ khúc như tất cả các tổ khúc khác của thời Baroque. Nếu xem xét thành phần của 3 sonate cho violin độc tấu của Bach, ta thấy cả 3 sonate đều có 4 chương với chương fugue làm trung tâm. Vì thế, ta có thể gọi tổ khúc BWV 997 và  Prelude, Fugue và Allegro BWV 998 là hai sonate.   

Theo thời gian, các tác phẩm viết cho lute của Bach gồm có:

 

1714 - 1717: Suite in E minor BWV 996: Prelude Fugue - Allemande - Courante - Sarabande - Bourrée - Gigue. Trong thời gian này, ông xin thôi việc ở Weimar để đến làm việc tại Köthen.

 

1717 - 1723: Prelude in C minor BWV 999. Thời điểm này, Bach chuyển đến Leipzig sau khi được bổ nhiệm làm chỉ huy ca đoàn ở nhà thờ Thánh Thomas.

 

Trước 1720: Fugue in G minor BWV 1000.

 

1724: St. John Passion BWV 245: cảnh 19. Ngày 7/4 năm này, vở St. John Passion này được dàn dựng và diễn lần đầu.

 

1727: Trauerode (Tụng ca tang lễ) “Laß, Fürstin, laß noch einen Strahl” BWV 198: các cảnh 1, 4, 5, 8, 10.

 

1727 hoặc trước 1736: Phiên bản đầu tiên của  St. Matthew Passion BWV 244b: cảnh 56 và 57. Ngày 27/7 phiên bản này được công diễn lần đầu.

 

1729: Trauermusik (Nhạc tang lễ) “Klagt, Kinder, klagt es aller Welt” BWV 244a: các cảnh 1, 7, 15 (đã thất lạc).Vào tháng 3 năm này, Bach được giao phụ trách trường nhạc Collegium Musicum Schott.

 

Khoảng 1730: Suite G minor BWV 995 Prelude - Fugue - Allemande – Courante – Sarabande – Gavotte I và II -  Gigue.    

 

1731: St. Mark Passion BWV 247: các cảnh 1, 9, 24, 46 (đã thất lạc). Ngày 23/3 vở này được công diễn lần đầu.

 

Khoảng 1735: Prelude Fugue và Allegro in Eb major BWV 998. Trong khoảng từ ngày 25/12 đến 6/1, 6 phần chính của Oratorio Giáng sinh được công diễn lần đầu. Con trai út Johann Christian Bach chào đời vào ngày 5-9.

 

1736 - 1737: Suite in E major BWV 1006a: Prelude – Loure - Gavotte en rondeau - Menuet 1 - Menuet 2 – Bourree – Gigue. Tháng 11/1737, Bach được bổ nhiệm là nhà soạn nhạc của Tuyển hầu vương Saxon và cung đình Ba Lan.

Khoảng 1740: Suite in C minor BWV 997: Prelude – Fugue – Sarabande – Gigue và double.

https://open.spotify.com/album/4Qj5bTDZj74zWnzYivEVBv?si=zpd08lDKSD2IvmK_pCuUvQ


Trong các tài liệu và các ấn bản phê bình ở thế kỷ 19, các sáng tác của Bach viết cho lute  ít được chú ý. Philipp Spitta (1841-1894), nhà âm nhạc học chuyên về tiểu sử của Bach, chỉ đề cập thoáng qua các sáng tác này. Ấn bản quan trọng đầu tiên của các tác phẩm này do  BG (Hiệp hội Bach) phát hành  không có Suite BWV 995 và Fugue BWV 1000. Các tác phẩm khác (Suite BWV 997 trong ấn bản của BG có rất nhiều lỗi) đã được trình bày trong các tập 36, 42 và 45/1 của Alfred Dörffel và Ernst Naumann dưới dạng các tác phẩm cho đàn phím hoặc các tác phẩm cho nhạc cụ có nguồn gốc không xác định. Trong số những bài viết có tính  học thuật nổi bật ở thế kỷ 20, có những bài viết của Wilhelm Tappert (1900), Hans Dagobert Bruger (1920/1921), Hans Neemann (1931) và Hans-Joachim Schulze (1966). Họ đã giải đáp nhiều câu hỏi về nguồn gốc và đối tượng cụ thể (nhạc cụ) của các bản nhạc này. Cho đến năm 1982, khi phiên bản quan trọng của NBANeue Bach-Ausgabe – Nhà xuất bản Bach mới)  xuất hiện trên báo in, vẫn chưa có phiên bản phê bình hoàn chỉnh nào về các tác phẩm của Bach viết cho đàn lute. Các phiên bản hoàn chỉnh nổi tiếng trước đây của các tác phẩm này là các bản chuyển soạn cho các nhạc cụ khác hoặc cho đàn guitar hiện đại. Ấn bản đầu tiên trong số này xuất hiện vào năm 1921.  

Các tác phẩm cho lute độc tấu là một phần rất nhỏ trong di sản của Bach nhưng lại có vai trò rất quan trọng với âm nhạc dành cho guitar  sau này. Việc Bach viết cho lute độc tấu, đặc biệt là các fugue vốn là hình thức cao nhất của nhạc phức điệu, như một sự thừa nhận khả năng diễn tấu của đàn lute. Càng có thêm minh chứng cho khả năng diễn tấu của guitar khi đã trở nên hoàn thiện hơn lute. Dù để chơi bằng guitar 6 dây, các tác phẩm này cũng phải soạn lại. Nhưng do cấu trúc của lute và guitar chỉ khác nhau giữa 5 dây và 6 dây nên việc chuyển soạn khá đơn giản và các tác phẩm này vẫn được giữ nguyên vẹn như bản gốc.

Chúng ta đều biết âm nhạc của J. S. Bach có vai trò rất quan trọng trong lịch sử âm nhạc. Các tác phẩm của ông không thể thiếu trong nhạc mục của các nghệ sĩ. Cũng như âm nhạc của các bậc thầy khác, các guitarist hoàn toàn có thể chuyển soạn các tác phẩm cho nhạc cụ khác của Bach cho guitar. Nhưng diễn tấu các tác phẩm nguyên bản dù sao cũng có sự hấp dẫn riêng. Thậm chí, để cho thính giả cảm nhận được đúng tinh thần của các tác phẩm khi tác giả sáng tác, các nghệ sĩ còn hay diễn tấu các tác phẩm nay bằng chính loại đàn mà tác giả đã sử dụng để sáng tác. Họ chơi các tác phẩm này trên đàn lute cũng như các nghệ sĩ đàn phím diễn tấu các tác phẩm viết cho đàn phím ở thời baroque trên đàn cembalo.

2/6/2019

Trịnh Minh Cường 

Đăng trên Tạp chí Âm nhạc - số 1 năm 2020

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...