Chuyển đến nội dung chính

CÁC THỂ LOẠI TRONG NHẠC CỔ ĐIỂN

 A – THÁNH NHẠC

Là nhạc dùng trong các nghi lễ tôn giáo

1. Thánh ca – ca khúc có nội dung tôn giáo dành cho đơn ca hặc hợp xướng

2. Chorus – hợp xướng hay đồng ca có thể có nhạc cụ đệm hoặc không, không nhạc cụ đệm gọi là hợp xướng A capella.

3. Mass hay missa – thánh lễ là nhạc quy mô lớn dành cho các buôi lễ thường có nội dung từ Kinh thánh.

4. Requiem – khúc cầu hồn là một mass dành riêng để cầu hồn người chết.

5. Oratorio - thanh xướng kịch. Giống opera có cốt truyện biểu diễn bằng cách đứng một chỗ hát có dàn nhạc đệm nhưng không diễn xuất, hát đơn ca hoặc hợp xướng.

6. Cantata tương tự như oratorio nhưng quy mô nhỏ hơn, thời lượng tác phẩm ngắn hơn.

7. Chorale prelude – prelude hợp xướng – prelude cho organ chơi ngay trước các bản hợp xướng để giáo đoàn cùng hát được đúng giọng.

8. Voluntary – khúc dạo viết cho organ chơi vào thời gian giải lao giữa bài thuyết pháp.

 

A – NHẠC THẾ TỤC

THANH NHẠC

1. Opera hay nhạc kịch: diễn kịch bằng hát và dàn nhạc giao hưởng. Cốt truyện và ca từ gọi là libretto.

2. Ca khúc nghệ thuật – lied tiếng Đức hay song tiếng Anh  đều có nghĩa là ca khúc, nhưng trong văn cảnh về nhạc cổ điển thì hiểu là ca khúc nghệ thuật. Các ca khúc nghệ thuật thường viết cho các giọng đơn ca và một nhạc cụ đệm thường là piano, có khi đệm bằng dàn nhạc. Trong các ca khúc nghệ thuật còn có romance là một thể loại có nguồn gốc từ Tây Ban Nha.

3. Hợp xướng hay đồng ca.

4. Oratorio và cantata cũng tương tự như thánh nhạc nhưng cốt truyện có nội dung thế tục

 

KHÍ NHẠC

I - NHẠC CHO DÀN NHẠC HAY NHẠC GIAO HƯỞNG

Là nhạc viết cho dàn nhạc giao hưởng(hàng trăm nhạc công trở lên) biểu diễn trên các sân khấu lớn

1. Giao hưởng - symphony, sinfonia, còn gọi là liên khúc giao hưởng vì thường có nhiều chương. Trong thời Baroque sinfonia có thể là chương mở đầu của một cantata hoặc oratorio

2. Thơ giao hưởng hay giao hưởng thơ - tone poem hay symphonic poem là giao hưởng thường có 1 chương dựa theo một câu chuyện hoặc một bài thơ và thường mang tiêu đề của câu chuyện hoặc bài thơ đó.

3. Nhạc ballet là nhạc để múa ballet

4. Nhạc nền – incidental music là nhạc làm nền cho một vở kịch hoặc phim.

5. Concerto: concerto thời Baroque viết cho dàn nhạc, từ thời Cổ điển trở đi thường viết cho 1 nhạc cụ và dàn nhạc – solo concerto(concerto độc tấu), 2 hoặc 3 nhạc cụ và dàn nhạc – double hay triple concerto(concerto song tấu hoặc tam tấu). Thời hiện đại cũng có concerto viết cho dàn nhạc nhưng tiêu đề ghi rõ concerto for orchestra.

 

NHẠC THÍNH PHÒNG

Là nhạc viết cho số lượng nghệ sĩ ít hơn giao hưởng thường biểu diễn trong phòng.

1. Hòa tấu thính phòng

Duo – song tấu gồm hai nhạc cụ giống hoặc khác nhau.

Violin sonata: sonata cho violin và piano.

Cello sonata: sonata cho cello và piano.

 

Trio -  tam tấu gồm 3 nhạc cụ

Piano trio: tam tấu piano gồm 1 piano cùng 2 đàn dây khác thường là violin và cello.

Flute trio: tam tấu flute gồm 1 flute cùng violin và cello.


Quartet: tứ tấu gồm 4 nhạc cụ

String quartet – tứ tấu đàn dây gồm 2 violin, viola và cello.

Piano quartet - tứ tấu piano gồm piano, violin, viola và cello.

String quintet – ngũ tấu đàn dây gồm 2 violin, 1-2 viola, 1-2 cello hoặc 1 double bass.

Piano quintet - ngũ tấu piano gồm piano, 1-2 violin, 1 viola, 1 cello hoặc 1 double bass.

Sextet – lục tấu gồm 6 nhạc cụ.

Septet – thất tấu gồm 7 nhạc cụ.

Octet – bát tấu gồm 8 nhạc cụ.

 

2. Nhạc cho dàn nhạc thính phòng(số nhạc công khoảng nửa dàn nhạc giao hưởng). Các sáng tác này hoàn toàn có thể chơi bằng dàn nhạc giao hưởng.

 Divertimento(nhạc giải trí thư giãn), serenade(nhạc chiều) đều có vài ba chương trở lên.

 3. Hát thính phòng: hát các ca khúc nghệ thuật giới thiệu ở trên.

 4. Độc tấu

Là hình thức diễn tấu có nhiều thể loại nhất

Nhiều chương

Tổ khúc – suite, partita, ouverture phổ biến ở thời Baroque có 3-6 chương thường là các vũ khúc.

Sonata: sonata thời Broque có 1 chương thường viết cho đàn phím. Sonata thời Cổ điển trở đi có từ  2 chương trở lên.

 

Nhiều đoạn ngắn

Biến khúc – variations gồm 2 – 30 biến khúc trên cùng một chủ đề. Thể loại này có thể viết cho dàn nhạc.

Ciaconna hay chaconne và passacaglia hay passacaille gồm nhiều biến khúc trên nền bè trầm lặp đi lặp lại.

 Hai hoặc ba đoạn và thường dài hơn một variation : etude, prelude, toccata, fantasia hay fantasy, capriccio hay caprice, rondo, march, nocturne, scherzo.

Các vũ khúc thường có 2 đoạn: allemande, courante, menuet hay minuet, gavotte, sarabande, bourree, gigue,  valse hay waltzer, polonaise, mazurka.

 Các thể loại trên có thể cũng viết hoặc chuyển soạn cho hòa tấu hoặc dàn nhạc.   

 

Chiều thứ 7 13/4/2024

Trịnh Minh Cường

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...