Chuyển đến nội dung chính

ALESIX WEISENBERG THOÁT LÒ THIÊU CỦA PHÁT XÍT NHỜ ÂM NHẠC

 Sở hữu một khả năng kỹ thuật thần bí, nhưng Alesix Weissenberg lại bị chỉ trích cung cách  diễn tấu lạnh lùng và thiếu tình cảm. Ngồi nghiêm nghị bên phím đàn, ông hầu như không nhướn mày, cười tủm hoặc đung đưa theo gió, và ông không bao giờ làm các động tác tay quá xúc động hoặc cường điệu; động tác của ông chỉ đơn giản là bắt tay vào công việc kinh doanh. Trong một số trường hợp, những màn trình diễn của ông được gọi là “khoa học lạnh lùng” và một nhà phê bình đã viết, “nhạc Bach của Weissenberg là một bài hướng dẫn giải phẫu do một bậc thầy tiến hành - một cuộc mổ xẻ xuất sắc phần da thịt lạnh lẽo, xám xịt, lấp lánh, từ đó mọi dấu vết của dòng máu sống động đều bị ép kiệt không còn một giọt.” Weissenberg sẽ không có những điều này và giải thích trong một cuộc phỏng vấn, “Bạn không thể mất kiểm soát về mặt thể chất và hãy xác định chính xác những gì tay bạn làm. Bạn có thể tưởng tượng một bác sĩ phẫu thuật đang phẫu thuật cho ai đó, ngất xỉu và nhìn lên trần nhà và rất phấn khích về điều đó không? Bệnh nhân sẽ chết. Đó cũng là điều xảy ra trong âm nhạc. Bệnh nhân chết vì có quá nhiều thứ đang diễn ra bên cạnh hoạt động thực tại.”

Người viết bài đang nghe album ông chơi Bach và thấy những nhận xét trên khá bất công vì tôi thấy ông chơi Bach tuyệt vời. Với một số thính giả mê nhạc Bach, có tôi trong đó,  lại muốn được thưởng thức nhạc Bach được diễn tấu theo cách lý trí kiểm soát tình cảm, một phong cách khó phân biệt với với lạnh lùng. Album đó đây:  https://open.spotify.com/album/3Xi6bfhwcbiQ0vOr3lnxqp?si=2UCup9J1SDyCo0zqM92R5w

Từ chỉ trích trên tôi đoán ông chơi Scarlatti sẽ hay tuyệt vời. Và đúng như thế thật: https://open.spotify.com/album/74Hx1hDIhyZetOFNhLUbwD?si=i3dDWOYKT4uRrsTBbZE3xg

Ngoài phong thái lạnh lùng trên sân khấu và bị cho là thiếu nhạy cảm, những màn trình diễn gây kích thích và hấp dẫn của Weissenberg đã bộc lộ trí thông minh âm nhạc sắc bén được áp dụng trên một phổ nhạc mục ấn tượng. Herbert von Karajan cho rằng “với cá tính và sự sâu sắc vượt trội của mình, Weissenberg là một trong những nghệ sĩ chủ chốt của thế kỷ 20”.

Sinh ngày 26 tháng 7 năm 1929 ở Sofia, Bulgaria, Weissenberg được học những bài đầu tiên từ mẹ trước khi học piano và sáng tác khi mới 5 tuổi với Pancho Vladigerov. Trong hồi ký của mình, Weissenberg viết: “Ông ấy là một người thầy có trực giác, linh hoạt, chứ không phải là một nhà sư phạm ngăn nắp, và chúng tôi, những học trò của ông, đã sớm nhận thức được về tính khí như một công cụ hơn là một gia vị.” Weissenberg đã có buổi độc diễn đầu tiên khi lên 10 với các tác phẩm của Bach, Schumann, Beethoven và Vladigerov. Ở phần encore(chơi thêm tặng thính giả), cậu đã chơi “một bản Etude của chính mình giọng Sol trưởng mà tôi đã chuyển soạn vào phút cuối sang giọng Mi giáng trưởng vì nghe có vẻ hay hơn.”Trong suốt sự nghiệp của mình, Weissenberg tiếp tục thể hiện mối quan tâm lớn đến sáng tác và bắt đầu từ giữa những năm 40, nhạc jazz đã trở thành một yếu tố cơ bản trong các tác phẩm của chính ông.

Khi còn nhỏ, Weissenberg đã bị tác động nặng nề từ những sự kiện đau thương trong Thế chiến thứ hai. Sinh ra trong một gia đình Do Thái và nhận thức được những mối nguy hiểm mà người Do Thái phải đối mặt ở Đông Âu, ông và bà mẹ đã cố gắng trốn khỏi Bulgaria do Đức chiếm đóng để sang Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, họ đã bị bắt và bị giam trong trại tạm giam ở biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ. Và điểm đến cuối cùng của tất cả người Do Thái trong các trại giam đều là các lò thiêu. Về sau Weissenberg kể lại rằng cây đàn accordion do người dì tặng đã cứu mạng ông. “Một lính gác người Đức yêu âm nhạc đã cho phép cậu bé chơi Schubert vào mỗi buổi chiều và cuối cùng đưa Weissenbergs lên chuyến tàu đi Istanbul, ném chiếc đàn accordion qua cửa sổ toa của họ khi tàu khởi hành.” Cuối cùng họ cũng đến được Palestine và Weissenberg tiếp tục việc học của mình tại Học viện Âm nhạc Jerusalem. Ông nhanh chóng ra mắt buổi hòa nhạc đầu tiên cùng dàn nhạc. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông bắt đầu chuyến lưu diễn lớn ở Nam Phi.

Năm 1946, với hai lá thư giới thiệu trong túi - một cho Artur Schnabel và một cho Vladimir Horowitz -Weissenberg vượt đại dương sang Hoa Kỳ . Theo Weissenberg, những lá thư giới thiệu “đã cho tôi lời khuyên như nhau. Sự dạy dỗ đầy cảm hứng, năng lực âm nhạc tạo ảnh hưởng và sự nhiệt tình của Vladigerov trong những năm ở Sofia đã chuẩn bị cho tôi về piano theo truyền thống sư phạm tốt nhất. Điều tôi cần gấp là kiến thức rộng hơn, nhiều thông tin văn hóa hơn, cũng có thể là trải nghiệm ở trường chứ không phải các buổi học riêng, một hoặc  hai cuộc thi, tại sao không nhỉ? Ngoài sự kiên trì và nghe nhạc càng nhiều càng tốt.” Ông theo học Schnabel và Landowska, đồng thời tham gia phòng thu piano của Olga Samaroff và Rosina Lhévinne, học với nhà soạn nhạc Vincent Persichetti tại Trường Âm nhạc Juilliard. Năm 1947, ông giành chiến thắng trong Cuộc thi Leventritt và Cuộc thi Tuổi trẻ Philadelphia và sự nghiệp tiến triển. Trong hơn mười năm, Weissenberg đã thành một phần của  sinh hoạt biểu diễn điêu luyện ở các thành phố lớn với những dàn nhạc nổi tiếng cùng các nhạc trưởng xuất sắc. Tuy nhiên, khi chuyển đến Paris vào năm 1956, ông đã phải nghỉ công diễn một thời gian dài. Weissenberg giải thích: “Là một nghệ sĩ trẻ, tôi học các tác phẩm mới rất nhanh và chơi chúng quá sớm. Trong 10 năm, tôi đã đạt đến điểm mà toàn bộ nhạc mục của tôi sẽ bị cường điệu  và thiếu nghiên cứu. Tôi không muốn ở tuổi 50 mà mình vẫn là một pianist có triển vọng.” Weissenberg tái xuất thành công vào những năm 1960 và sau đó suy ngẫm về “nhiều khát khao và phần thưởng khi học nghề; những nghi ngờ và niềm vui do sự căng thẳng không thể tránh khỏi giữa sự thôi thúc bản năng và kỹ thuật biểu diễn; trách nhiệm cá nhân to lớn xuất phát từ kỹ năng kỹ thuật và sự thể hiện sáng tạo… và trên hết là những khoảnh khắc vô cùng hấp dẫn khi diễn ra sự giao tiếp, sự tương tác kỳ diệu giữa khán giả và nghệ sĩ, giữa chỉ huy và nghệ sĩ độc tấu, giữa hai tâm hồn nhạy cảm.” Lối chơi của ông có lúc sấm sét, hung hãn và đầy thể lực, nhưng cũng có thể nên thơ, dịu dàng và nồng nàn. Dù yêu hay ghét ông, Weissenberg vẫn là một thế lực piano đáng kể.

Weissenberg còn là một cây bút biếm họa và minh họa xuất sắc với những bức tranh ghép tuyệt vời, chủ yếu liên quan đến sự nghiệp chuyên nghiệp sâu rộng của mình. Những bức tranh ghép này được trưng bày tại Sala Bulgaria của Sofia: https://alexisweissenbergarchive.com/collages/

Di sản thu âm của ông gồm một nhạc mục khổng lồ. Tuy chủ yếu từ thời Lãng mạn, nhưng cũng trải dài từ Bach và Scarlatti đến Prokofiev, Ravel và Stravinsky.  Ông cũng yêu thích giảng dạy và tổ chức các lớp master class trên khắp thế giới. Năm 1993, ông thành lập Alexis Weissenberg Piano Master Class ở Engelberg, Thụy Sĩ, nơi ông dạy nhiều nghệ sĩ piano trẻ thuộc thế hệ mới như Kirill Gerstein, Simon Mulligan, Ivan Moravec, Mehmet Okonsar, …

Alexis Weissenberg qua đời ở Lugano, Thụy Sĩ vào ngày 8 tháng 1 năm 2012.

Các album của ông: https://open.spotify.com/artist/2fxWL96h0S44PhEa9e6mtm?si=yyWB8TmlShKkotyxMSZcNA

9/1/2024

Trịnh Minh Cường tổng hợp từ internet

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...