Chuyển đến nội dung chính

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÀ SOẠN NHẠC LỚN

 

Như mọi ngành nghề khác, các cá nhân lỗi lạc đóng vai trò rất quan trọng trong lịch sử âm nhạc. Họ sáng tạo ra thể loại mới hay hoàn thiện thể loại dang có, hoặc phát minh ra kỹ thuật hay ngôn ngữ sáng tác mới. Những tác phẩm âm nhạc của họ không những đưa thính giả đến một chân trời âm nhạc mới mà còn thuyết phục được các đồng nghiệp khác sáng tác theo hướng mới đó. Khi khởi nghiệp, các nhà soạn nhạc trẻ thường chịu ảnh hưởng về phong cách sáng tác của thầy mình hoặc của một đồng nghiệp mà họ ngưỡng mộ. Giới âm nhạc có thể phân tích những điểm cụ thể cho thấy sự ảnh hưởng này. Nhưng cũng có thể khi nghe những tác phẩm này,  thính giả dễ liên tưởng đến một tác phẩm khác của một bậc thầy.  

Hoặc đơn giản hơn, các tuyệt phẩm đã gợi cảm hứng cho các đồng nghiệp sáng tác ra các tác phẩm mới. Thính giả lại được thưởng thức nhiều tuyệt phẩm mới. Những sáng tác mới đó thậm chí tạo thành một trào lưu kéo dài hàng thế kỷ. Ảnh hưởng của các nhà soạn nhạc lớn có thể phân thành hai nhóm chính:

1. Ảnh hưởng trên quy mô lớn

Đó là khi những sáng tạo của một nhà soạn nhạc đã thuyết phục được đông đảo thính giả và giới đồng nghiệp. Các nhà soạn khác hưởng ứng sáng tạo mới đó bằng những sáng tác của mình. Sự hưởng ứng có thể tạo thành một trào lưu, một trường phái có ảnh hưởng đến lịch sử âm nhạc. Về mức độ ảnh hưởng này chúng ta có thể nghĩ ngay đến Joseph Haydn(1732-1809) với Trường phái Cổ điển Viên và Arnold Schoenberg(1874-1951) với Trường phái Viên thứ Hai.

Haydn được coi là cha đẻ ra thể loại tứ tấu cho đàn dây và giao hưởng. Không những thế, ông còn góp phần quan trọng để hoàn thiện hình thức sonata vốn đóng vai trò quan trọng nhất trong sáng tác âm nhạc của thời đại đó. Haydn không phải là người đầu tiên viết giao hưởng. Thể loại giao hưởng đã hình thành từ trước thời Haydn và nổi bật nhất là các giao hưởng của Johann Stamitz(1717-1757). Johann Stamitz là người sáng lập và lãnh đạo trường phái Manheim. Dưới dự dẫn dắt của ông, Manheim trở thành một trong những trung tâm âm nhạc lớn nhất thời đó với dàn nhạc giao hưởng được cho là hay nhất châu Âu. Dù Haydn không sáng tạo điều gì mới về cấu trúc giao hưởng so với Stamitz, nhưng sự khác biệt ở chỗ các giao hưởng của Haydn hay hơn hẳn của Stamitz vì đã chinh phục được thính giả và giới âm nhạc. Từ đó, giao hưởng là mảng sáng tác quan trọng hàng đầu của mỗi nhà soạn nhạc. Haydn cùng các đồng nghiệp trẻ như Mozart, Beethoven đã mở ra kỷ nguyên mới của âm nhạc – thời kỳ cổ điển, một thời kỳ có ảnh hưởng sâu rộng bậc nhất trong lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Người ta gọi các bậc thầy của thời kỳ này là Chủ nghĩa cổ điển Viên.

Vào đầu thế kỷ XX, cuộc sống con người đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ nhờ các tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Âm nhạc thời hậu lãng mạn bắt đầu có nhu cầu đổi mới và đã xuất hiện các trào lưu mới như ấn tượng, biểu hiện, tối giản. Khởi  đầu theo phong cách biểu hiện, nhưng A. Schoenberg đã tìm con đường của riêng mình. Ông sáng tạo ra lý thuyết 12 âm kết hợp với  vô điệu tính thành kỹ thuật sáng tác mới. Ông và hai học trò là Alban Berg và Anton Webern đã tạo nên một trường phái  mới trong âm nhạc – trường phái Viên thứ Hai, trường phái có ảnh hưởng hàng đầu trong sáng tác nhạc thế kỷ XX.  

 

 

2. Nhân bản âm nhạc  

Một tuyệt phẩm âm nhạc của một nhà soạn nhạc được nhân bản khi gợi cảm hứng cho một nhà soạn nhạc khác sáng tác một tác phẩm mới. Nhân bản đó có thể là một bản chuyển soạn, biến khúc, rhapsody hoặc một ca khúc. Có thể nhân bản đó cũng là một tuyệt phẩm. Một ví dụ rất độc đáo của nhân bản âm nhạc là bản thánh ca Avé Maria(Kính mừng Đức Mẹ Maria) của Bach-Gounod. Điểm độc đáo đầu tiên chính là tên tác giả được ghép từ hai nhà soạn nhạc Johann Sebastian Bach và Charles Gounod. Prelude BWV 846 là prelude đầu tiên trong tập Bình Quân Luật của J. S. Bach đã gợi cảm hứng cho C. Gounod viết nên Thánh ca này. Và ông lại dùng chính prelude này để làm bè đệm tạo thành một tuyệt phẩm mới rất độc đáo của hai đồng tác giả.

Chuyển soạn là cách nhân bản phổ biến nhất. Mỗi tác phẩm âm nhạc thường được viết cho một hình thức diễn tấu. Một tuyệt phẩm đã làm các nhạc sĩ chơi các nhạc cụ khác nhau không cưỡng lại ý muốn trình tấu nó. Và họ đã chuyển soạn các tuyệt phẩm đó cho hình thức diễn tấu của mình. Tác phẩm càng nổi tiếng sẽ càng có nhiều nhân bản khác nhau, thậm chí thành một nhân bản nhạc pop, jazz.

J. S. Bach là một trong những bậc thầy có các tuyệt phẩm được chuyển soạn nhiều nhất. Ngoài prelude BWV 846 kể trên, xin giới thiệu thêm bốn tuyệt phẩm:

Air on G string(Làn điệu trên dây Sol) là tên thường dùng cho các nhân bản chuyển soạn của chương 2 có tên gốc là Air trong tổ khúc cho dàn nhạc số 3 BWV 1086 của J. S. Bach. Giai điệu quyến rũ của một chương nhạc viết cho dàn nhạc thính phòng đã được phóng to với nhân bản cho dàn nhạc giao hưởng và thu nhỏ với các nhân bản cho các nhạc cụ độc tấu và cả hát vocalise(hát không lời).

Toccata và fugue BWV 565 viết cho organ là tác phẩm phổ biến nhất của Bach. Sự phổ biến của tuyệt phẩm này nhờ các nhân bản cho các dàn nhạc nhẹ và nổi tiếng nhất là dàn nhạc Paul Mauriat. Một số ban nhạc rock cũng hay sử dụng chủ đề của fugue này.  

Chaconne là chương kết của partita viết cho violin độc tấu BWV 1004. Tuyệt phẩm này chủ yếu được chuyển soạn cho các nhạc cụ độc tấu. Trong các bản chuyển soạn này, bản nổi tiếng nhất là bản của nhà soạn nhạc-pianist người Ý Ferruccio Busoni(1866-1924). Bản thân Chaconne là các biến khúc trên nền bè trầm không đổi. Khi chuyển soạn nhạc viết cho violin với các bè mỏng hơn soạn thành nhạc cho piano có khả năng thể hiện dày bè hơn nhiều, nhiều biến khúc đã được Busoni biến tấu thêm lần nữa cho phù hợp với nhạc cụ của mình. Và hàm lượng sáng tác của Busoni trong nhân bản này chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với hàm lượng của nhà chuyển soạn trong các bản chuyển soạn khác. Chính vì thế, tác giả của nhân bản này thường được giới thiệu là Bach-Busoni như hai đồng tác giả như trường hợp Bach-Gounod với Avé Maria. 

Prelude BWV 855 là prelude thứ 10 trong tập Bình quân Luật Tập I của J. S. Bach. Prelude này có bè tay trái là chuyển động hòa âm theo một motive gần như prelude BWV 846 kể trên. Pianist người Nga Alexander Siloti(1863-1945) đã dùng gần như nguyên bè tay trái và thêm giai điệu ở một số câu tạo thành một tác phẩm gần như mới. Thậm chí, chỉ dùng riêng bè tay trái cũng thành một tác phẩm trọng vẹn như bản chuyển soạn cho guitar solo của người viết bài này. Khi đó, nhân bản bản có hình thức giống prelude trong Tổ khúc thứ nhất cho cello độc tấu của ông. Việc chuyển soạn một bè của một tác phẩm thành một tác phẩm khác chắc chỉ xảy với một tác phẩm phức điệu đỉnh cao như âm nhạc của J. S. Bach.   

Những màn diễn tấu đầy mê hoặc trên sân khấu của Niccolò Paganini(1782-1840) đã chinh phục Franz Liszt (1811-1886) hoàn toàn. Và Franz Liszt quyết tâm trở thành một pianist điêu luyện như Paganini với cây violin. Không những Liszt đã thành công trên phương diện diễn tấu piano, ông còn thành công khi nhân bản âm nhạc của Paganini. Đó là tập Các Étude lớn của Paganini S. 141 đề tặng Quý Bà Clara Schumann. Tập nhạc này hoàn thành năm 1851 gồm 6 étude chuyển soạn hoặc biến tấu từ các tác phẩm của N. Paganini. 5 étude được chuyển soạn từ các caprice. Riêng étude số 3 "La campanella" chuyển soạn từ chương cuối trong Violin concerto số 2. Đây là etude nổi tiếng nhất vì là một trong những etude được các pianist yêu thích nhất.

Biến khúc cũng là một cách nhân bản phổ biến tuy không nhiều bằng chuyển soạn. Các biến khúc thường đều được viết trên chủ đề trong các tuyệt phẩm. Hình thức này có một trường hợp rất độc đáo. Đó là một nhà soạn nhạc không thành công về sáng tác nhưng lại lưu danh trong lịch sử âm nhạc nhờ một nhà soạn nhạc khác. Johann Gottlieb Goldberg(1727-1756) là nhà soạn nhạc và nghệ sĩ đàn phím và đàn ống điêu luyện. Ông là nhạc sĩ của một bá tước bị chứng mất ngủ trầm trọng. Vị bá tước này chỉ muốn nghe nhạc để ngủ nhưng âm nhạc của Goldberg chưa đáp ứng được. Tình cờ biết J. S. Bach, bá tước đặt ông viết một tác phẩm để Goldberg chơi ru ngủ ông. Bach cho rằng hình thức biến khúc thích hợp nhất với yêu cầu này và 30 biến khúc trên chủ đề là một aria chậm rãi đã ra đời. Và tên của nghệ sĩ chơi nó đầu tiên đã gắn liền với tên tác phẩm đến ngày nay –  Các biến khúc Goldberg(The Goldberg Variations).

W. A. Mozart nằm trong số các nhà soạn nhạc có nhiều chủ đề được biến tấu nhất. Các chủ đề phổ biến từ các aria trong các vở opera của ông. Người ta thống kê được hơn 20 nhà soạn nhạc từ thời Mozart đến hiện đại đã viết các biến khúc trên chủ đề của ông cho các hình thức diễn tấu khác nhau. Trong đó không ít biến khúc là những tuyệt phẩm trong mỗi chuyên  ngành như các tập biến khúc của L. Van Beethoven viết cho cello và piano, các biến khúc của F. Sor viết cho guitar solo…   

Chúng ta thường ví một nhà soạn nhạc bậc thầy là một cây cổ thụ. Như vậy, các tuyệt phẩm của họ là những cành nổi bật. Các nhà soạn nhạc khác đã biến những cành đẹp đẽ đó thành cành nhiều tán hơn. Sự kết nối theo thời gian làm cho rừng cây âm nhạc ngày một dày thêm bởi sự ảnh hưởng theo những cách khách nhau.

12/6/2021  

Trịnh Minh Cường

Đăng trên Tạp chí Âm nhạc số 3/2021

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...