Chuyển đến nội dung chính

BIÊN CHẾ DÀN NHẠC

 Những nhóm hòa tấu có quy mô tương tự như dàn nhạc cổ điển xuất hiện ngay sau năm 1600 liên quan đến những bước phát triển đầu tiên của nghệ thuật opera. Sau đó, đến giữa những năm 1700, quy mô và thành phần của dàn nhạc rất khác nhau tùy theo điều kiện thực tế và tài chính. Thông thường, các nhà soạn nhạc thời đó chỉ đưa ra những chỉ dẫn thô sơ hoặc không chỉ dẫn về số lượng nhạc cụ cho một tác phẩm cụ thể. Các bè ít nhiều được gán ngẫu nhiên cho các nhạc cụ có sẵn và trong khi bộ dây cuối cùng đã phát triển thành nhóm được sử dụng như ngày nay (hai nhóm violin, viola, cello và có thể cả double bass), tiêu chuẩn chung tương tự cho bộ hơi còn  mất nhiều thời gian hơn nữa mới đạt được.

Nền tảng của dàn nhạc hiện đại bắt nguồn từ Dàn nhạc Cung đình ở Mannheim danh tiếng vang dội trong những năm 1750, thời điểm mà nhóm continuo kiểu baroque đang dần biến mất. Bao gồm bộ dây, hai sáo flute, hai oboe, hai bassoon, hai kèn horn, hai kèn trumpet và các trống timpani, Trường phái Mannheim đã phát triển  cá tính hóa bộ gỗ, trong khi bộ dây bắt đầu sử dụng cách kéo vĩ phối hợp. Dàn nhạc của Mannheim giành được tiếng tăm nhờ tính linh hoạt và biến thiên cường độ tuyệt vời, họ đã thiết lập một tiêu chuẩn mới mà phần còn lại của châu Âu buộc phải cố gắng để theo kịp. Khả năng của dàn nhạc có thể thay đổi cường độ từ rất nhẹ sang rất mạnh đã được người đương thời đặt thành một thuật ngữ riêng là Mannheim Crescendo (Mạnh lên kiểu Mannheim) và nhiều nhà soạn nhạc sau đó đã nhận ra hiệu quả này và đưa nó vào các tác phẩm của họ. Bằng cách nâng cao chất lượng các buổi trình diễn của dàn nhạc, điều này đã khích lệ nhiều nhà soạn nhạc thử viết giao hưởng. Sau đó, hai kèn clarinet được thêm vào và sự ra đời của Beethoven đã khởi đầu cho việc dàn nhạc được mở rộng liên tục. Cho đến thời điểm đó, kèn trombone hầu như chỉ được sử dụng trong âm nhạc nhà thờ và để tạo hiệu ứng kịch tính đặc biệt trong các vở opera, nhưng Beethoven đã quyết định dùng một hoặc nhiều kèn trombone trong các bản giao hưởng thứ 5, 6 và 9 của ông (ngoài một số nhạc cụ gõ trong bản thứ 9). Bản giao hưởng thứ 5 cũng yêu cầu dạng ban đầu của double bassoon, thứ 5 và thứ 6 một sáo piccolo, và cuối cùng số lượng kèn horn đã tăng từ hai lên ba hoặc bốn. Đôi khi Beethoven viết từng bè riêng cho double bass(đến thời điểm đó hầu như đã tăng gấp đôi số cello), cách làm này nhanh chóng trở nên phổ biến hơn.

Vào cuối những năm 1800, cùng với những đổi mới của Berlioz, các nhạc cụ như đàn harp, kèm tuba hiện đại, horn Anh, clarinet trầm, clarinet Mi giáng, double bassoon hiện đại,  trombone trầm, v.v... cuối cùng đã trở thành tiêu chuẩn trong các dàn nhạc lớn nhất. Sự mở rộng hơn nữa chủ yếu giới hạn ở bộ đồng và bộ gõ. Trong nửa đầu những năm 1800, các nhạc cụ van ngày càng trở nên phổ biến với các nghệ sĩ kèn horn và trumpet cùng với các nhạc cụ tự nhiên, về lâu dài hầu như các nhạc cụ tự nhiên đều bị thay thế. Nhưng một số nhà soạn nhạc, đặc biệt là Brahms và Wagner, vẫn tiếp tục sử dụng các nhạc cụ tự nhiên với niềm tin chắc chắn về sự vượt trội về âm sắc của chúng.

Quy mô dàn nhạc luôn có những biến động mặc dù sự phát triển theo hướng các dàn nhạc ngày càng lớn hơn vẫn tiếp tục cho đến khoảng thời gian diễn ra Thế chiến thứ nhất. Sự gia tăng dần dần này đầu tiên có liên quan đến việc chuyển giao dàn nhạc từ cung đình sang công cộng. Năm 1782, biên chế thường trực của Dàn nhạc Mannheim bao gồm 23 violin(11/12), 3 viola, 4 cello, 3 double bass, 4 sáo flute, 3 oboe, 4 clarinet, 4 bassoon, 6 horn và timpani. Khoảng năm 1800, bộ dây đã phát triển lên 7 viola, 5 cello và 7 double bass, và từ đây trở đi quy mô của bộ dây được mở rộng nhiều lần. Trong vở opera Salome của mình, Richard Strauss yêu cầu 16 violin 1 và 16 violin 2, 12 viola, 10 cello và 8 double bass. Cùng với sự phát triển của dàn nhạc và sự biến mất của bè trầm continuo baroque, quy ước chỉ huy dàn nhạc từ một cây đàn phím (ngay cả ở thời Mozart) hoặc giao chức năng này cho người chỉ huy bè violin 1 cũng biến mất. Lịch sử của nhạc trưởng – một nhạc công không chơi nhạc – thực sự khởi sắc sau năm 1800.

Khi các chỉ thị của nhà soạn nhạc được tuân thủ, giao hưởng thứ 8 của Mahler (biệt danh là “Bản giao hưởng một nghìn”) yêu cầu một dàn nhạc gồm khoảng 120 nhạc công, hai dàn hợp xướng (mỗi dàn có tối thiểu 32 ca sĩ), 8 ca sĩ lĩnh xướng và một dàn hợp xướng nam. Oratorio Gurrelieder (1901–10) của Arnold Schonberg yêu cầu 20 violin 1 và 20 violin 2, 16 viola, 16 cello, 12 double bass; 4 piccolo, 4 flute, 3 oboe và 2 horn Anh, 7 clarinet (trong đó 2 kèn Mi giáng và 2 bass clarinet), 3 bassoon và 2 double bassoon; 10 kèn horn, 6 trumpet và 1 bass trumpet, alto trombone, 3 trombone, bass trombone, double bass trombone và tuba. Cộng thêm 4 đàn harp, một đan phím và 5 nghệ sĩ chơi bộ gõ. Trong tất cả 144 nhạc công  không tính người kể chuyện, có năm ca sĩ lĩnh xướng, một dàn hợp xướng lớn và một dàn hợp xướng nam riêng.

Sự suy thoái tài chính sau Thế chiến thứ nhất và Đại Suy thoái toàn cầu trong những năm 1930 đã dẫn đến sự suy giảm biên chế dàn nhạc. Và từ Thế chiến thứ hai, biên chế dàn nhạc về cơ bản không có gì thay đổi như đến ngày nay. Nhưng ngay cả hiện nay, biên chế dàn nhạc cũng thay đổi đáng kể do một số điều kiện: kinh tế, quy mô của sân khấu hoặc khán phòng, chức năng (ví dụ như opera), yêu cầu về phối khí, âm học, nhạc mục, mong muốn đặc biệt của nhạc trưởng, truyền thống địa phương, v.v… Sau Thế chiến II, các dàn nhạc thính phòng (thường có khoảng 40 nhạc công) trở nên phổ biến như một sự thay thế cho dàn nhạc giao hưởng tốn kém, sau đó là nhóm hòa tấu được gọi là "sinfonietta", ngày nay thường gồm một đại diện duy nhất của các nhạc cụ cơ bản trong một dàn nhạc giao hưởng, bao gồm cả các đàn dây độc tấu.

Một dàn nhạc giao hưởng đủ biên chế thời nay bao gồm khoảng một trăm nhạc công thường trực thường được phân bổ như sau: 16–18 violin 1, 16 violin 2, 12 viola, 12 cello, 8 double bass, 4 flute (1 cây đặc biệt là piccolo). ), 4 oboe (1 cây đặc biệt là horn Anh), 4 clarinet (2 cây đặc biệt là 1 clarinet trầm, 1 clarinet cao), 4 bassoon (1 cây đặc biệt là double bassoon). Về lý thuyết, tất cả những nghệ sĩ bộ hơi đều phải chơi được tất cả các nhạc cụ phụ ngoài nhạc cụ chính của họ. Thêm vào đó, 5–8 kèn horn, 4 trumpet, 4 trombone (1 đặc biệt trombone trầm), 1 tuba, 1 timpani, 3–4 nghệ sĩ bộ gõ (trong đó có ít nhất một người phải chơi được timpani), 1–2 đàn harp và 1 đàn phím (piano, celesta, harpsichord, v.v.). Các nhạc công thành thạo các nhạc cụ như saxophone, guitar, bass oboe (heckelphone), các nhạc cụ điện tử ondes martenot và synthesize, v.v., thường không có vị trí cố định mà chỉ  tham gia khi có các dự án hoặc buổi hòa nhạc đặc biệt. Tương tự như vậy, những nhạc công bổ sung sẽ tham gia khi một bản nhạc yêu cầu sử dụng bộ đồng và bộ gõ mở rộng, v.v. Trong dàn nhạc mỗi bè nhạc cụ đều có một người chỉ huy là bè trưởng, là người chỉ huy nhóm và chơi độc tấu khi cần. Bè trưởng bè violin 1 được gọi là concertmaster chịu trách nhiệm chỉ đạo chung toàn bộ các bè đàn dây và như một phó nhạc trưởng chịu trách nhiệm lên dây chuẩn cho cả dàn nhạc.

Ngày nay, vì sự bình đẳng về lợi ích cũng như ý thức trách nhiệm của từng nhạc công, nhiều dàn nhạc đã có sơ đồ luân phiên giữa các đàn dây, ngoại trừ hai vị trí đầu tiên. Các nhạc công được tuyển dụng dựa trên các buổi diễn thử mang tính cạnh tranh cho các vị trí cụ thể. Nhạc trưởng chính được xác định sau cuộc tuyển chọn cuối cùng. Vị trí cố định thường sau một thời gian thử việc từ sáu tháng đến một năm, sau đó một nghệ sĩ có vị trí cố định chỉ có thể bị sa thải theo các thỏa thuận nghiêm ngặt giữa công đoàn và ban lãnh đạo dàn nhạc.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...