Georg
Friederich Händel sinh ngày 23 tháng 2 năm 1685 tại Halle hay Saale thuộc xứ
Thuringia, Đức. Năm 1685 thực sự là năm cổ điển của thời Baroque khi cả hai bậc
thầy hàng đầu khác đều sinh vào năm này: Johann Sebastian Bach – 21 tháng 3(ở
Eisenach cũng thuộc xứ Thuringia) và Domenico Scarlatti - 26 tháng 10.
Mặc dù người cha đã có ý
định cho con mình theo nghề luật, nhưng khuynh hướng âm nhạc của Georg luôn rõ
ràng từ nhỏ. Năm 1703 khi 18 tuổi, anh đến Hamburg dạy nhạc để kiếm sống và được
nhận vào Nhà hát Opera Hamburg làm nghệ sĩ violin. Anh kết bạn với
Johann Mattheson(1681-1764), người đã ghi chép về các sự kiện trong cuộc đời của
Handel trong thời gian ở đó, và họ cùng nhau đến thăm bậc thầy Buxtehude ở
Lübeck trong năm đó. Năm 1704 Handel và Mattheson 23 tuổi đã cùng tham gia một buổi ra mắt cho vở Cleopatra của Mattheson tại Nhà hát Opera
Hamburg. Trong đêm diễn Mattheson vừa phải đảm đương vị trí nhạc trưởng vừa phải
đóng vai Anthony giọng nam cao. Vì vậy Mattheson đã nhờ Handel thế chỗ nhạc trưởng
của mình khi anh vào vai diễn. Nhưng trục trặc đã phát sinh khi Mattheson từ
vai diễn trở về vị trí nhạc trưởng thì không hiểu vì lý do gì Handel không trả lại vị trí cho bạn đồng nghiệp.
Xung đột đã nổ ra nhưng Mattheson nhanh chóng đề nghị giải quyết vấn đề sau đêm
diễn. Đêm diễn đã thành công như mong đợi và hai nhạc sĩ gặp nhau ở ngoài nhà
hát rồi lao vào nhau với hai cây kiếm. Tay kiếm của Mattheson đã tỏ ra hơn phân
khi Handel bỗng ngã gục sau nhát đâm
trúng ngực. Nhưng thật may cho nền âm nhạc thế giới, một chiếc khuy áo bằng kim loại đã làm chệch
mũi kiếm. Thật hú vía! Sau đêm kinh
hoàng đó, hai nhạc sĩ trẻ đã xí xóa mọi
chuyện và giữ được tình bạn thân trong suốt cuộc đời họ. Khi Handel qua đời trước,
Mattheson đã dịch cuốn tiểu sử về Handel của John Mainwaring sang tiếng Đức và
xuất bản nó ở Hamburg bằng tiền của mình.
Đầu năm sau, Handel đã
hoàn thành hai vở opera đầu tiên: Almira và Nero.
Khi ở Hamburg, Handel đã làm quen với Hoàng thái tử
Ferdinando de Medici, con trai và là người thừa kế của Đại công tước Tuscany, và
ông đã mời Handel đến thăm Ý. Handel đã dành hơn ba năm ở Florence, Rome,
Naples và Venice. Đến
năm 1706, ông đến Rome. Ở đây, Hầu tước (sau là Hoàng tử) Francesco Ruspoli
thuê ông làm nhạc sĩ của gia đình và ông sáng tác hầu hết các tác phẩm lớn
phong cách Ý ở đây. Chuyến đi này rất quan trọng. Âm nhạc của mỗi thời kỳ đều
có những mẫu mực đặc trưng. Nhiều đặc trưng của âm nhạc thời Baroque có thể bắt
nguồn từ Ý và đặc biệt từ A Corelli, người từng dạy Handel. Ảnh hưởng của âm nhạc
Ý thể hiện trong mối bận tâm cả đời của Handel với opera cũng như với các ngôi
sao opera Ý. Các Concerto Grosso của ông cũng vậy, đó là những chứng cứ cho ảnh
hưởng của Ý và Corelli.
Ý là một trung tâm âm nhạc lớn, đặc biệt là trong 20
năm đầu của những năm 1700. Handel đã gặp gỡ và giao lưu với nhiều nhà soạn nhạc,
nghệ sĩ và giới quý tộc hàng đầu thời bấy giờ và không chỉ người Ý. Đó là điều tất
yếu với những người yêu thích văn hóa và âm nhạc muốn du ngoạn vòng quanh châu
Âu đương nhiên điểm đến hàng đầu phải là các trung tâm văn hóa lớn của Ý. Do
đó, trong chuyến đi vòng quanh nước Ý, Handel đã có một số mối quan hệ hữu ích
bao gồm với Công tước Manchester, Đại sứ Anh và quan trọng nhất là Hoàng thân
Ernst August của Hanover, anh trai của Tuyển vương (sau này là Vua George I của
Anh), người đã thúc giục ông đến thăm Hanover. Hoàng thân cũng có thể đã xác định
được khả năng đảm nhiệm một vị trí tại triều đình Hanover, vì khi Handel rời Ý
vào đầu năm 1710 để đến Hanover, nơi ông được bổ nhiệm làm nhạc trưởng cho tuyển
vương George Louis và tuyển vương đã ngay lập tức cho ông nghỉ phép mười hai
tháng để thăm nước Anh. Hoàng gia Anh và Đức luôn có quan hệ mật thiết với
nhau. Đạo luật Cư trú năm 1701, bảo đảm sự kế vị của người theo đạo Tin lành đối
với Vương miện của Anh, đã tạo cơ hội lớn cho thân mẫu của George Louis lên
ngôi Đại đế Anh quốc. Do đó, Tuyển vương George Louis sẽ rất nóng lòng muốn
Handel đi do thám vùng đất này và báo cáo lại với ông ta về đời sống âm nhạc,
xã hội và chính trị ở London.
Trong chuyến đến London
đầu tiên dài tám tháng, Handel được tiếp đón một cách ưu ái tại triều đình của nữ
hoàng Anne. Dù sao ánh mắt của ông chủ yếu hướng về nhà hát opera mới của
Vanburgh, Nhà hát Nữ hoàng ở Haymarket. Rinaldo, vở opera Ý đầu tiên được sáng
tác riêng cho London, đã được trình diễn ở đó vào năm 1711 và cực kỳ thành công.
Chỉ trở về Hanover một thời gian ngắn vào năm 1711, Handel đã quay lại London
vào năm 1712 khi ông được mời viết một Tụng ca Hoàng gia Anh để mừng sinh nhật
của nữ hoàng Anne. Nữ hoàng thường ít quan tâm đến các nhà soạn nhạc của mình,
vì (theo Công tước Manchester) '' quá bận rộn hoặc quá bất cẩn để nghe nhóm nhạc
của riêng mình, và không nghĩ đến việc nghe và trả tiền cho những người chơi mới
dù họ có là thiên tài hay không có kỹ năng''. Do đó, thật ngạc nhiên khi bà đã
cấp cho Handel khoản lương suốt đời là 200 bảng một năm.
Nhưng sức khỏe của nữ
hoàng ngày càng giảm sút rồi đến tháng 9 năm 1714, nước Anh có nhà vua mới. Do
đó, Tuyển vương của Hanover George Louis đã được nhập quốc tịch theo Đạo luật
Quốc hội năm 1705 và trở thành Vua George I của Anh. Một trong những cam kết đầu tiên của nhà vua mới
là tham gia buổi lễ sáng tại Nhà nguyện Hoàng gia, nơi ''sẽ hát bản Te Deum do ngài
Handel sáng tác "- và vị trí của Handel với nhà vua mới dường như đã được
bảo đảm. Ngoài các nhiệm vụ đối với nhà vua và cung đình, ca khúc Te Deum “Caroline” của ông đã được trình diễn
bởi các nghệ sĩ của Nhà nguyện Hoàng gia trong lễ đính hôn hoàng gia đầu tiên của
nhà vua - Handel trở thành thầy âm nhạc cho các công chúa, do đó có thể ông đã
sáng tác cho họ các tổ khúc cho đàn phím xuất bản năm 1720. Mùa hè năm 1717,
nhà vua muốn có một buổi hòa nhạc trên sông Thames và Handel đã sáng tác Nhạc Nước
cho dàn hơi và dây. Cùng các thành viên của cung đình và các nhạc sĩ trên thuyền
rồng, đêm nhạc đầy say mê đã diễn ra đến tận sáng.
Tình yêu lớn của Handel
đối với opera với những giọng ca rực rỡ của nó và thách thức trong việc kích
thích và duy trì sự quan tâm của một khán giả vốn không kiên định bắt đầu kéo
ông ra khỏi những bức tường khá chật hẹp của hoàng cung. Handel đã được bổ nhiệm
làm nhà soạn nhạc thường trú của Bá tước Carnarvon, thành Công tước Chandos từ
năm 1717 là là người yêu nhạc đã duy trì một nhóm ca sĩ và nhạc công để sử dụng
trong hai ngôi nhà của mình: một ở trung tâm London, một ở vùng nông thôn yên
tĩnh tại Cannons, Edgware, bắc London. Handel cũng như như bất kỳ nhà soạn nhạc
nào đều rất ngạc nhiên về chất lượng của cơ sở âm nhạc của Công tước. Với tư
cách là Bộ trưởng ngân khố dưới thời Nữ hoàng Anne, Công tước dường như đã tận
dụng quá mức vị trí của mình trong việc chuyển một phần không nhỏ ngân khố của
vương quốc vào túi riêng của mình gây ra một vụ bê bối lớn. Cơ sở âm nhạc của
ông ta thuộc hàng cao cấp nhất với Pepusch làm nhạc trưởng và những tên tuổi
như Francesco Scarlatti(anh trai của Alessandro
Scarlatti), Johann Christoph Bach( anh họ của J S Bach). Công tước đã viết
cho bạn của mình là bác sĩ cung đình, bác sĩ Arbuthnot, rằng "Ông Handel
đã viết cho tôi hai bản Tụng ca mới rất quý phái ...".
Trong vòng hai năm tiếp
theo (1717-18) Handel đã viết 11 bản tụng ca, 1 Te Deum, và hai masque(họat cảnh
âm nhạc và khiêu vũ có tính giải trí) – “Acis và Galatea” và Esther.
Vào mùa đông năm 1718-19, các quý tộc đã thành lập một đoàn opera Ý ở London. Bước
đầu đoàn hát được đảm bảo kinh phí bằng vé đặt trước trong 8 năm. Khi huy động đủ
thành viên của đoàn, với sự cho phép của nhà vua, đoàn được gọi là “Học viện
Âm nhạc Hoàng gia” với Handel là giám đốc âm nhạc. Nhận thức được tầm quan
trọng của việc chỉ tuyển dụng những ca sĩ và nhạc công giỏi nhất, đặc biệt là
trong những bè hát chính được thống trị bởi một số ít ngôi sao quốc tế, Handel
đã mời những ca sĩ và nhạc công người
Anh xuất sắc nhất, sau đó đến Dresden để tìm kiếm những ngôi sao người Ý mà ông
luôn cố gắng để cân bằng phần nào. Mùa diễn đầu tiên của Học viện Hoàng gia
khai mạc vào ngày 2 tháng 4 năm 1720 với vở Numitore của Giovanni Porta, ngay
sau đó là vở Radamisto của Handel. Trong tám năm sau, gần nửa số buổi diễn được
dành cho các vở opera của Handel.
Năm 1727, không lâu trước
khi George I qua đời, Handel trở thành thần dân Anh và đổi tên hành George
Frideric. Ông vẫn là nhà soạn nhạc của Nhà nguyện Hoàng gia được bổ nhiệm từ
năm 1723. Handel đã sáng tác bốn tụng ca quy mô lớn cho lễ đăng quang của vua
George II và hoàng hậu Caroline tại Tu viện Westminster vào ngày 11 tháng 10
năm 1727, báo chí đương thời tường thuật là một sự kiện cực kỳ tráng lệ. Âm nhạc Handel viết cho dịp này (nổi tiếng nhất, bản Linh mục
Zadok, sẽ được hát trong mỗi lễ đăng quang kể từ đó) cũng hào hùng tương ứng và
danh tiếng của nó vẫn còn nguyên sức sống trong nhiều năm sau đó. Năm năm sau, năm
1732, danh tiếng của âm nhạc đăng quang của Handel đến mức ông quảng bá buổi biểu
diễn oratorio tiếng Anh đầu tiên của mình tại một nhà hát ở London: "Âm nhạc
viết theo phong cách nhạc Lễ Đăng quang".
Vài tháng sau, tháng 1
năm 1728, vở Opera của Gay Beggar đã ra mắt
tại nhà hát ở Lincoln's Inn Fields. Đó không phải là một vở opera thực
thụ mà là một vở kịch với các ca khúc được tạo nên từ các giai điệu nổi tiếng
(bao gồm cả một số giai điệu của Handel), và đề cập đến cuộc sống thấp kém của
London theo cách nhại lại các sự kiện chính trị và văn hóa đương thời – kể cả
opera Ý. Hơn 60 suất diễn đã thực hiện trong năm đó làm lu mờ mùa diễn kết thúc
của Học viện Hoàng gia. Điều này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó đã đánh dấu sự
khởi đầu của sự thay đổi trong gu âm nhạc và thời trang ở London, thoát khỏi
opera Ý để chuyển sang một thứ gì đó ít cao sang hơn, gần gũi và dễ hiểu hơn.
Tuy nhiên, Handel đã từ
chối từ bỏ opera của Ý và vẫn tiếp tục viết và sản xuất chúng. Nhiều bạn bè và
những người ủng hộ Handel đã cố thuyết phục ông chuyển sang viết opera tiếng
Anh nhưng vô ích. Năm 1733, một số bạn bè, đồng nghiệp và những người bảo trợ
cũ của ông đã quyết định đáp trả sự kiêu ngạo của ông bằng cách bỏ Học viện
Hoàng gia để thành lập cái gọi là 'Nhà hát của Quý tộc' do Hoàng tử xứ Wales đứng
đầu. Cuối mùa diễn năm 1734, Handel đã phải chịu bị làm nhục khi Nhà hát của
Nhà vua nhất thời để vuột mất sự thành công cho Nhà hát quý tộc.
Từ opera đến oratorio
Việc chuyển từ opera
sang oratorio tất nhiên không diễn ra ngay lập tức. Vở Esther của Handel được sáng tác vào khoảng
năm 1720 cho Công tước Chandos không được trình diễn trong Nhà nguyện tại
Cannons mà ở "phòng khách lớn" như một vở diễn cổ trang, đã là
"ngôi nhà nửa chừng" giữa opera và oratorio. Năm 1732, Handel sửa lại
tác phẩm này và trình bày lại tại Nhà hát Haymarket. Mặc dù có thể có lý khi
cho rằng Handel đã "phát minh ra" oratorio, nhưng trên thực tế, đó là
do ý đồ của Giám mục London, người đã can thiệp vào thời điểm đó, cấm bất kỳ
hình thức trình diễn nào trên sân khấu theo một chủ đề Kinh thánh. Thông qua sự
kiểm duyệt thuần túy này, Handel đã phát hiện ra thực tế có một lượng khán giả
quan tâm đến những vở diễn âm nhạc kinh thánh không diễn xuất. Sau đó Handel đã
sản xuất hai vở Deborah và Athalia mà nhà âm nhạc học Basil Lam đã gọi là
"Oratorio vĩ đại đầu tiên của Anh". Do đó, một mặt xu hướng viết oratorio
của Handel đang tăng lên, trong khi các hoạt động biểu diễn của ông lại giảm đi
– một điều cần thiết vì công chúng hiện đã khá mệt mỏi với opera Ý.
Vào tháng 4 năm 1737,
Handel bị đột quỵ hoặc một chấn thương khiến tay phải bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Ông đang kiệt sức vì những căng thẳng trong 5 năm qua. Bạn bè và những người bảo
trợ của ông tự hỏi liệu ông còn chơi đàn hay sáng tác nữa không? Ông tới nghỉ ở
Aix-la-Chapelle để tắm hơi. Sáu tuần sau, ông trở lại London trong tình trạng
phục hồi một cách thần kỳ. Tình cờ chứng kiến những đứa con của một nghệ sĩ
oboe quá cố đi ăn xin ở các quán cà phê, ông đã vận động những người bạn lập ra
Quỹ trợ giúp các nhạc sĩ nghèo túng. Ông đã có thể chơi đàn organ và bắt đầu
lên kế hoạch cho những tác phẩm tiếp theo của mình. Handel vẫn quyết tâm viết
cho sân khấu, nhưng cũng chấp nhận thực tế của việc thay đổi thị hiếu của công
chúng và tính kinh tế của việc phớt lờ chúng - Handel đã chuyển sang một hình
thức mà ông đã dần phát triển trong hơn mười năm: oratorio tiếng Anh, theo nhiều
cách có tính nhạc opera, mặc dù phụ thuộc nhiều hơn vào hợp xướng. Tiếp theo tụng
ca Lễ Alexander là Il trionfo del Tempo e della Verita, rồi đến Saul, và sử thi
Israel ở Ai Cập (1739).
Nhà xuất bản cho Handel, John Walsh, đã thực hiện một bước chưa từng
có khi phát hành toàn bộ tổng phổ của Lễ Alexander, qua đó khẳng định tính đại
chúng không chỉ của tác phẩm mà còn của thể loại này. Cuối cùng Handel đã nhận
ra sở thích và thị hiếu của công chúng với các tác phẩm hợp xướng tiếng Anh, do
đó tự tạo cho mình một sức sống sáng tạo mới.
Vào cuối những năm 1730,
Handel đã viết nhiều cho dàn nhạc hơn. Chủ yếu là các interlude(khúc khí nhạc
xen giữa các hồi) trong các oratorio của mình, các organ concerto của ông cũng
ngày càng trở nên phổ biến một cách xứng đáng. Trong thư gửi cho mẹ, quý bà
Pendarves đã mô tả các concerto này là “những điều tuyệt vời nhất con từng nghe
trong đời”. Ngài John Hawkins đã viết về Handel: "Khi ông ấy đưa ra một bản
concerto, phương pháp của ông ấy nói chung là giới thiệu nó với một chương chủ
động trên các âm mẫu, được truyền vào tai một cách chậm rãi và trang trọng; hòa
âm chặt chẽ đã được tạo ra, và đầy đủ như có thể diễn đạt; các đoạn được kết nối
với nghệ thuật kỳ diệu, toàn bộ hoàn toàn dễ hiểu và mang dáng vẻ của sự hồn
nhiên tuyệt vời. Kiểu prelude này thành công bởi chính concerto mà ông viết với một tinh thần và sự
vững chắc mà chưa ai có thể sánh bằng.” Hầu như không có ngoại lệ, mỗi bản
oratorio tôn giáo hay thế tục của Handel đều kèm theo ít nhất một organ
concerto – kiệt tác Messiah cũng có khi biểu diễn ở Dublin và London.
Các Concerto Grosso Op 6
được sáng tác vào mùa thu năm 1739 và xuất bản vào tháng 4 năm 1740. Vào thời
điểm đó âm nhạc của Handel ngày càng được ưa chuộng tại Vườn Vauxhall, nơi những
nhà bảo trợ đi dạo theo những con đường, hòa mình giữa những bụi cây cảnh và
hoa, và tham gia giải khát, trong khi thưởng thức các buổi biểu diễn khí nhạc
và thanh nhạc phong phú của các nhà soạn nhạc và nghệ sĩ hàng đầu. Sự nổi tiếng
của Handel tại địa điểm thân hữu nổi tiếng này đã được chứng minh bằng việc đặt
bức tượng bán thân bằng đá cẩm thạch của Handel do nhà điêu khắc Louis-Francois
Roubiliac chế tác và được đặt làm bởi Jonathan Tyers, chủ những khu vườn thú vị
này.
Vào mùa hè năm 1741,
Handel nhận được lời mời từ Lãnh chúa ở Dublin để sáng tác một oratorio tôn
giáo mới sẽ tổ chức vào năm 1742 cùng một loạt các buổi biểu diễn Alexanders Feast, Acis và Galatea, Tụng ca
cho Ngày Thánh Cecilia và L'Allegro tại New Music Hall, Fishamble Street,
Dublin. Tác phẩm được đặt viết theo libretto từ Kinh thánh do Jennens viết
chính là Messiah. Từ buổi biểu diễn đầu tiên vào tháng 4 năm 1742, bao gồm cả
buổi từ thiện để xem trước, Messiah đã là một thành công ngoài sức tưởng tượng,
chiếm vị trí trong số những tác phẩm tuyệt vời nhất và được yêu thích nhất từng
được sáng tác. Thu nhập từ các buổi diễn tương đương với 2,85 triệu euro
bây giờ. Ông đã dùng phần lớn số tiền để trợ giúp cho các cô nhi viện và người
nghèo.Khi trở lại London, Handel đã sắp xếp cho một mùa oratorio đặt vé trước bắt
đầu vào đầu năm 1743. Ông thuê nhà hát Covent Garden rồi vào tháng 2 khai mạc
chùm các buổi diễn với vở Samson được đón nhận nồng nhiệt, tháng sau diễn
vở Messiah.
Handel bị một cơn đột quỵ
khác vào tháng Tư. Tuy nhiên, ông chỉ khó ở nhất thời và sớm khiến mọi người
kinh ngạc bởi dòng tác phẩm quy mô lớn ra đều đặn và chủ yếu là oratorio. Năm
1749, Nhạc Pháo hoa Hoàng gia của ông được hoan nghênh nhiệt liệt khi diễn kèm
các lễ hội tại Green Park để kỷ niệm Hiệp ước Aix-la-Chapelle (một buổi xem trước
tại Vauxhall Gardens cho rất đông khán giả). Buổi biểu diễn Messiah đầu tiên của
tại Bệnh viện Foundling (một tổ chức từ thiện ở London do ông làm Giám đốc từ
năm 1740) diễn ra vào tháng 4 năm 1750 đã trở thành một sự kiện thường niên sau
đó. Sau đó, ông bắt đầu viết Jephtha. Nhưng trong quá trình viết hợp xướng kết ở
Màn II How dark, 0 Lord, are thy decrees. All hid from mortal sight, thị lực
mắt trái khiến ông thất bại. Không lâu sau đó mắt phải của ông cũng bị hỏng.
Ngay cả khi bị mù hoàn toàn vào năm 1752, ông vẫn tiếp tục biểu diễn các organ
concerto và voluntary(bản nhạc thường viết cho organ chơi giữa các buổi lễ) giữa
các phần trong các oratorio của mình. Trí nhớ và khả năng ứng tác của ông vẫn rất
tuyệt vời. Ông vẫn tham gia vào việc sắp xếp các buổi biểu diễn các tác phẩm của
mình cho đến khi qua đời vào ngày 14 tháng 4 năm 1759. Handel gần như trở thành
huyền thoại sống. Ông được chôn cất tại Tu viện Westminster, nơi chôn cất ông
được đánh dấu bằng tượng và lại là tác phẩm của Roubiliac. Chưa thấy nguồn nào
viết về đời tư của Handel. Ông chưa bao giờ kết hôn và giữ kín chuyện riêng của
mình. Di chúc của ông để lại phần lớn tài sản của mình cho cháu gái Johanna, phần
còn lại thuộc về các mối quan hệ khác, người hầu, bạn bè và các tổ chức từ thiện.
Các tài liệu về cuộc đời
của ông bắt đầu được đưa ra tới tấp. Vào năm 1784 kỷ niệm 25 năm ngày mất của
ông, một chùm ba buổi hòa nhạc kỷ niệm chưa từng có đã được tổ chức tại Tu viện
Westminster và Điện Pantheon. Đỉnh điểm là vào ngày 29 tháng 5 một buổi biểu diễn
đại chúng vở Messiah tại Tu viện. Thật vậy,
có lẽ nhờ tác phẩm vĩ đại và vĩnh cửu này mà Handel được biết đến nhiều nhất
cho đến ngày nay.
L. Van Beethoven đã ca ngợi Handel là “ bậc thầy vô
song của những bậc thầy. Hãy học tập ông cách sáng tạo nên cái hùng vĩ bằng những
chất liệu thật giản dị, đơn sơ. “
Handel đã sáng tác 42 opera, 25 oratorio(thời lượng như
opera), hơn 120 cantata, rất nhiều trio và duet, aria và thánh ca, 18 concerto
grosso, 12 organ concerto, solo và trio sonata cùng các tổ khúc cho đàn phím.
Tổng thời lượng ghi âm toàn bộ sáng tác của Handel
khoảng 337h, của Vivaldi – 235h, J. S. Bach – 175, Mozart – 245h.
Chân dung âm nhạc của ông do tôi soạn: https://open.spotify.com/playlist/1rA6xf1MpblnUIs6Etzfob?si=a31e9dbde9e34cc7
23/2/2022
Trịnh Minh Cường tổng hợp
Nhận xét
Đăng nhận xét