Franz Joseph Haydn (31/3/1732–31/5/1809- tình cờ ông sinh và mất đều vào ngày 31) là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất lịch sử âm nhạc phương Tây. Ông là thầy của nhiều nhà soạn nhạc và lỗi lạc nhất trong đó là L. Van Beethoven. Ông là cha đẻ của thể loại tứ tấu đàn dây và giao hưởng dù ông không phải là người đầu tiên sáng tác giao hưởng. Ông để lại di sản đồ sộ với 107 giao hưởng, 83 tứ tấu đàn dây, 45 piano trio, 62 piano sonata, 14 mass và 26 opera cùng vô số sáng tác khác. Mặc dù ông không phải là người đầu tiên viết giao hưởng hay hoàn chỉnh về cấu trúc của thể loại này so với Johann Stamitz là người định hình cấu trúc cho thể loại này, nhưng ông được coi là cha đẻ của giao hưởng vì chất lượng các giao hưởng của ông tuyệt vời hơn bất kỳ ai cùng thời. Vì vậy đã thuyết phục được các đồng nghiệp cũng viết giao hưởng và đưa thể loại này lên vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp sáng tác của mỗi nhà soạn nhạc.
Joseph là con trai của
một thợ bánh xe và đầu bếp của một chủ đất ở Vienna, Áo. Ngay từ nhỏ Joseph có
giọng hát tuyệt vời đến nỗi khi mới 5 tuổi cậu đã được nhận vào Trường Hợp xướng
của Nhà thờ Thánh Stephen ở Vienna. Nhạc trưởng hợp xướng tại Nhà thờ St
Stephen từng đề nghị Haydn trở thành một castrato, nhưng người cha phản đối. Chất
giọng cao vút của cậu kéo dài đến khi cậu 16 tuổi. Chất giọng của cậu đã làm Nữ
hoàng Maria Theresa chú ý và thốt lên: "Thằng bé đó không hát, nó đang hót!".
Haydn đã rời khỏi dàn hợp xướng theo một cách khó quên - cắt bím tóc của một bạn
hát và bị đánh đòn trước toàn dàn hợp xướng.
Năm 1751, Haydn tình cờ quen nhà thơ Metastasio và được ông
dạy lý thuyết âm nhạc. Để trả học phí Haydn đã làm tạp vụ cho thầy. Cảm động về
tinh thần ham học của cậu trò Metastasio đã giới thiệu Haydn làm gia sư cho một
gia đình và cho phép học trò nghèo sử dụng cây piano của mình. Năm 22 tuổi,
Haydn lại có may mắn làm quen với nhạc sư Porpora nổi tiếng và được thầy cho đảm
nhiệm chân đệm đàn cho lớp thanh nhạc vừa học sáng tác với danh sư. Sau đó
Haydn tiếp tục được gặp và học hỏi các tiền bối nổi tiếng khác như Gluck.
Đến những năm 1770, âm nhạc của Haydn đã trở nên đặc biệt và
cá tính hơn nhờ những cảm hứng từ một hình thái cảm xúc cao độ được gọi là “Bão
táp và Xung kích(Sturm and Drang). Danh tiếng của nhà soạn nhạc nhanh chóng lan
rộng khắp nước Áo và các đơn đặt viết bắt đầu đến từ nước ngoài.
Năm 1790, hoàng thân Nicholas Esterházy, chủ của Haydn từ
năm 1762, qua đời và Anton, một người thờ ơ âm nhạc, trở thành hoàng thân mới.
Haydn chuyển đến Vienna và nhận lời mời đến thăm nước Anh từ Johann Peter
Salomon, nghệ sĩ violin và bầu sô gốc Đức. Ông ở đây từ1791 đến 1792 và rất được
thính giả London mến mộ.
Thời kỳ từ 1761 đến 1790 ông sáng tác hơn 60 giao hưởng, hơn
40 tứ tấu, khoảng 30 sonata, hơn 10 opera và một số mass cùng hơn 200 bản cho
cello để hoàng tử chơi.
Năm 1795, hoàng thân Anton Esterházy qua đời và người kế vị
ông, Nicholas II, yêu cầu Haydn trở lại Esterháza. Là người yêu thích âm nhạc
nhà thờ, Nicholas đã giao nhiệm vụ cho Haydn sáng tác một bản nhạc phổ thơ mới
cho thánh lễ hàng năm.
Giai đoạn từ 1790 đến khi qua đời, Haydn sáng tác những tác
phẩm thanh nhạc quan trọng là đỉnh cao sự nghiệp của ông là hai oratorio Sáng
Thế Ký và Bốn Mùa.
Năm 1804, Haydn nghỉ hưu ở Esterháza và bệnh tật khiến ông
không thể sáng tác thêm. Trong tháng 5 năm 1809, quân Napoléon tiến vào Vienna.
Nhưng Haydn vẫn ở lại đó và được hai lính canh của quân xâm lược bảo vệ một
cách kính cẩn.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 1809, Haydn qua đời một cách nhẹ
nhàng trong một giấc ngủ.
31/3/2022
Trịnh Minh Cường tổng hợp
Toàn bộ sáng tác của ông với tổng thời lượng khoảng 180h:
https://open.spotify.com/playlist/1ynRlUAbABManLeMDUEXG6?si=4ddf52f382c64259
BỐN
MÙA CỦA JOSEPH HAYDN
Nói
đến Bốn Mùa trong nhạc cổ điển, phần lớn thính giả dòng nhạc này nghĩ ngay đến
Vivaldi và Tchaikovsky là hai nhà soạn nhạc đều có tác phẩm Bốn Mùa rất nổi
tiếng, rất ít thính giả biết đến Bốn Mùa của Haydn. Lần đầu tiên tôi biết đến
tác phẩm này từ bố tôi, một người quan tâm đến nhạc cổ điển. Ông cũng nghe
nhưng chỉ loanh quanh các bản valse của J Strauss II và cũng không nhớ được tên
các bản đó. Tuy nhiên ông là người chịu đọc về nhạc cổ điển. Khi tôi học cấp
hai, thấy tôi đang nghe một bản trong Bốn Mùa của Tchaikovsky ông bảo: có mấy
nhạc sĩ sáng tác Bốn Mùa đấy. Ngòai Vivaldi và Tchaikovsky còn có Haydn nhưng
Bốn Mùa của Haydn kém nổi tiếng hơn. Phải hơn 40 năm sau đó tôi mới có dịp gặp
đĩa tác phẩm này ở shop CD, thời CD copy của Tàu. Sau khi nghe tôi thích Bốn
Mùa của của Haydn hơn hẳn các Bốn Mùa khác ở chỗ quy mô lớn hơn nhiều mà vẫn
hấp dẫn đến nốt cuối cùng.
Nguyên
tác là Die Jahreszeiten, Hob. XXI:3. Đây là một oratorio thế tục hiếm hoi ở
thời cổ điển về trước. Sau thành công rực rữ của oratorio Sáng Thế Ký năm 1798,
Haydn tiếp tục viết oratorio Bốn Mùa và tác phẩm được trình diễn lần đầu vào
năm 1801. Người viết libretto cho Bốn Mùa là Nam tước Gottfried van
Swieten(1733-1803). Van Swieten là quan chức ngoại giao Áo gốc Hà lan vốn là
nhạc sĩ nghiệp dư rất đam mê âm nhạc. Ông đã sáng tác 3 vở opera hài và 10 giao
hưởng nhưng chỉ còn bảy giao hưởng tồn tại đến nay. Đó cũng là một thành công
lớn với một nhà soạn nhạc nghiệp dư. Tuy nhiên, ông được nhớ đến nhiều hơn trên
cương vị người cộng tác và nhà bảo trợ của các nhà soạn nhạc lớn như Haydn,
Mozart và Beethoven. Vào 1 giờ sáng ngày 5 tháng 12 năm 1791 Mozart trút hơi
thở cuối cùng. Swieten đã có mặt tại nhà Mozart là người tổ chức đám tang cho
thiên tài yểu mệnh. Sau đó hai năm, ông đã tổ chức buổi hòa nhạc cho Requiem
của Mozart và thu được 300 ducat, một khoản tiền khá lớn, dành cho góa phụ
Constanza của tác giả. Ông cũng là bạn thân và nhà bảo trợ cho Beethoven trẻ
tuổi và được Beethoven đề tặng giao hưởng đầu tiên. Và cũng chính Swieten đã
viết libretto cho oratorio Sáng Thế Ký. Van Swieten viết libretto Bốn Mùa dựa
trên trường ca Bốn Mùa của nhà thơ người Anh James Thomson (1700–1748) xuất bản
năm 1730. Oratorio này gồm 4 phần: Xuân-Hạ-Thu-Đông viết cho ba giọng solo:
soprano-Hanna, tenor-Lucas, bass-Simon cùng dàn hợp xướng và dàn nhạc.
Mùa
Xuân mở đầu bằng những lời chào đón của các nhân vật qua các recitativo, aria,
hợp ca và hợp xướng. Họ ca ngợi và tỏ lòng biết ơn những làn gió, cơn mưa tắm
rửa cho trái đất. Họ ca ngợi cái đẹp của thiên nhiên vạn vật cùng lời tạ ơn
đấng Tạo hóa.
Mùa
Hè mở đầu bằng những miêu tả buổi sáng ngày mới của ba nhân vật rồi họ cùng
nhau hát ngợi ca mặt trời. Nhưng nắng cũng làm vạn vật khô cằn: “Tự nhiên kiệt
sức chìm xuống nghỉ ngơi; hoa héo, đồng cỏ khô cằn, đài phun khát nước”. Và rồi
một cơn bão kéo đến với những cuộn mây đen cùng sấm sét. Thính giả sẽ nghe thấy
một cơn bão đang đến tương tự như cơn bão ở chương 4 trong giao hưởng Đồng nội
của L. Van Beethoven. Mùa Hè kết thúc bằng một hợp xướng ca ngợi vẻ đẹp thanh
bình của đồng quê lúc cuối ngày.
Mùa
Thu là lúc nhà nông thu hoạch thành quả sau những ngày lao động vất vả dưới mưa
nắng. Các nhân vật hân hoan hát về những thành quả đó rồi cùng nhau ca ngợi sự
cần cù: “Ngôi nhà tranh nơi chúng ta ở; Quần áo mà chúng ta mặc; Sản phẩm mà
chúng ta ăn. Đó là những món quà được bạn ban tặng, hỡi những người chăm chỉ!
Hỡi những người chăm chỉ trung thực!”. Haydn tâm sự rằng trong cả quãng đời cần
mẫn của mình, lần đầu tiên ông được yêu cầu viết một hợp xướng ca ngợi tính cần
cù.
Mùa
Đông là mùa khắc nghiệt nhất trong năm “Nhìn kìa, mùa đông đang đến để cai trị,
nào hơi nước, nào mây, nào bão. Sương mù dày đặc tràn xuống sườn núi, và nuốt
chửng cả vùng đồng bằng khô cằn. Giữa trưa mà mặt trời buông thấp mà những tia
sáng vẫn yếu ớt. Những cơn cuồng phong lao tới từ Greenland và cực Bắc, nơi Mùa
Đông điều khiển triều đình của mình và nay cai quản một nửa địa cầu”. Nhưng rồi
mùa Đông cũng qua đi để nhường chỗ cho mùa Xuân mới như trong màn hợp xướng kết
đầy lạc quan.
Trích từ bài Bốn mùa trong âm nhạc (Trịnh Minh Cường ) - Tạp chí Âm nhạc số 2-2021.
Nhận xét
Đăng nhận xét