Chuyển đến nội dung chính

BELA BARTOK

Bela Bartók(tiếng Hungary phát âm là bê lo bo’r tốc) sinh ngày 25 tháng 3 năm 1881 ở thị trấn Nagyszentmiklós xứ Banat Vương quốc Hungary, ngày nay là Sânnicolau Mare, Romania. Bartók là một dòng họ quý tộc Hungary cấp thấp có nguồn gốc từ làng Borsodszirák, tỉnh Borsod, vương quốc Hungary. Bà nội ông là một người Công giáo gốc dân tộc thiểu số Bunjevci nhưng tự coi mình là người Hungary. Cha của Bartók (1855-1888) cũng tên là Béla, là hiệu trưởng của một trường nông nghiệp. Mẹ của ông, Paula (nhũ danh Voit) (1857–1939), là người gốc Turócszentmárton, Martin, nay thuộc Slovakia.

Béla bộc lộ năng khiếu âm nhạc từ rất sớm. Theo bà mẹ, cậu bé có thể phân biệt các tiết tấu vũ điệu khác nhau do bà chơi trên piano trước khi nói được thành câu hoàn chỉnh. Năm lên bốn, cậu đã có thể chơi được 40 bản nhạc trên đàn piano và năm sau đó cậu bắt đầu được học chính thức với mẹ. Năm 1888, khi lên bảy, người cha đột ngột qua đời. Sau đó bà mẹ đã mang Béla và em gái Erzsébet đến sống ở Nagyszőlős, nay là Vynohradiv, Ukraine, rồi lại chuyển đến Pressburg, nay thuộc Pozsony, Bratislava, Slovakia. Béla có buổi công diễn độc tấu đầu tiên trước công chúng vào năm 11 tuổi ở Nagyszőlős và nhận được sự đánh giá tích cực từ giới phê bình. Ít lâu sau đó, bậc thầy László Erkel(1810-1893, cha đẻ của opera lớn Hungary) đã nhận cậu làm học trò.
Từ năm 1899 đến năm 1903, Bartók học piano với István Thomán, học trò của Franz Liszt, và học sáng tác với János Koessler tại Học viện Âm nhạc Hoàng gia ở Budapest. Ở đây ông đã gặp Zoltán Kodály và hai người trở thành bạn đồng nghiệp suốt đời.
Năm 1903, Bartók viết tác phẩm cho dàn nhạc lớn đầu tiên của mình, Kossuth, một giao hưởng thơ tôn vinh Lajos Kossuth, anh hùng của Cách mạng Hungary năm 1848. Bartok và Kodaly với chiếc máy ghi âm đã cùng nhau đi khắp nước Hungary và vùng Transylvanian(trung tâm Romania) sưu tầm các bài dân ca. Nhờ họ mà rất nhiều bài dân ca Hungary còn tồn tại đến ngày nay. Việc đó cũng bắt đầu tạo nên nền tảng cho phong cách âm nhạc đang phát triển nhanh chóng của Bartok.
Giai đoạn từ cuối những năm 1920 đến những năm 1930, các yếu tố âm nhạc dường như xung đột đã hợp nhất để tạo nên một dòng kiệt tác. Từ sự thôi thúc về tiết tấu hấp dẫn và những giai điệu êm tai của bản sonata cho hai piano và bộ gõ (1937) đến sự hoa mỹ hậu lãng mạn của bản violin concerto thứ hai (1937).
Chạy trốn chiến tranh Bartok sang New York và sự thay đổi này đã dẫn đến một sự thay đổi về phong cách âm nhạc. Ông sáng tác rất ít trong hai năm cho đến khi có đơn đặt viết từ nhạc trưởng Serge Koussevitzky đã mở cửa xả lũ một lần nữa. Đó là các tác phẩm như Concerto cho dàn nhạc, Piano concerto thứ ba và Viola concerto nhưng chưa hoàn thành. Tuy nhiên, Bartok còn có một điều bất ngờ cuối cùng với bản Sonata kiên định và bí ẩn cho Solo Violin (1944), viết tặng danh cầm Yehudi Menuhin.
Điều khiến các sáng tác của Bartók trở nên đặc biệt là mối liên hệ sâu sắc với âm nhạc dân gian Hungary. Nhận thức về giá trị cao của nhạc dân gian của ông bắt đầu từ năm 1904 khi ông nghe nhạc nông thôn Magyar (bản địa Hungary). Có điều gì đó rất quan trọng về nó mà Bartók đánh giá rất cao. Trong thư gửi vợ ông viết: “Một yếu tố hoàn toàn khác khiến âm nhạc đương đại (thế kỷ 20) trở nên hiện thực: đó là, nửa chủ ý, nửa cố tình, nó tìm kiếm những ấn tượng từ hiện thực vĩ đại đó của nghệ thuật dân gian đang bao trùm mọi thứ.”
Bartók đầu tiên tập trung vào các làn điệu dân gian của Hungary, sau đó mở rộng khám phá sang Romania, Bulgaria, Slovakia, Serbia, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước Ả Rập. Ông và Zoltán Kodály đề nghị mọi người biểu diễn các bài hát rồi ghi lại thành bản nhạc. Ngày nay, có thể tìm các bản thảo bản nhạc đó tại kho lưu trữ Bartok ở Budapest, Hungary và tại nhiều cơ sở khác nhau của Hoa Kỳ, bao gồm cả kho lưu trữ của Đại học Columbia và Đại học Princeton. Một số tài liệu được lưu giữ tại Thư viện Quốc hội, nơi Bartok biểu diễn tại Khán phòng Coolidge vào năm 1940.
Ngoài việc sử dụng các làn điệu dân gian đã sưu tầm trong các sáng tác của mình, Bartók còn viết về chúng trên cương vị nhà âm nhạc học trong các tiểu luận và sách học thuật. Do đó, Bartók được công nhận là người đồng sáng lập ngành âm nhạc dân tộc học-ethnomusicology. Những nghiên cứu của ông về làn điệu dân gian được xuất bản từ năm 1913.
Trong cuốn tự truyện của mình, Bartók nói: “Kết quả của những nghiên cứu này có ảnh hưởng quyết định đến các sáng tác của tôi, vì nó đã phóng thích tôi khỏi sự cai trị chuyên chế của các giọng thứ và trưởng. Phần lớn kho báu được thu thập, và phần có giá trị hơn, đều có điệu thức tôn giáo hoặc Hy Lạp cổ, hoặc dựa trên các thang âm (ngũ cung) nguyên thủy hơn, và các giai điệu chứa đầy những đoạn tiết tấu tự do và đa dạng nhất cũng như những thay đổi của nhịp độ, cả lơi nhịp và đúng nhịp.”
Từ năm 1908 đến 1910, Bartók sử dụng 42 làn điệu Slovak và 43 làn điệu Hungary trong tuyển tập nhạc piano có tính sư phạm của mình mang tên Cho Thiếu nhi (Gyermekeknek): https://open.spotify.com/album/5SQejlBprNk9ca72T1H73x...
Trong các sáng tác của Bartók dựa trên bộ sưu tập làn điệu dân gian của ông là các Vũ khúc Dân gian Romania (Román nepi táncok). Ban đầu được sáng tác cho piano vào năm 1915, năm 1917 Bartók đã viết lại cho dàn nhạc. Chúng được biểu diễn lần đầu ở Budapest vào năm 1918. Vài năm sau, nghệ sĩ violin Zoltán Székely quay lại với sáng tác cho piano nguyên gốc của Bartók và chuyển soạn những bản nhạc tuyệt đẹp này cho violin và piano vào năm 1925 và 1926. Các Vũ khúc Dân gian Romania, hay như tiêu đề của ấn bản đầu tiên ghi bằng tiếng Đức: Rumänische Volkstänze, gồm một chùm sáu bản ngắn với các tựa đề: 1. Vũ khúc gậy (Jocul cu bata), 2. Vũ khúc khăn quàng (Braul), 3. Ở Một Nơi (Pe loc), 4. Vũ khúc kèn (Buciumeana), 5. Polka Romania (Poarga Romaneasca), và 6. Vũ khúc nhanh (Maruntel). Những gì thể hiện trong những làn điệu này bao gồm hình ảnh những vũ khúc nông dân mùa xuân vui vẻ và nhẹ nhàng, cảm giác không trọng lượng và nỗi nhớ xa xăm, niềm đam mê Di Gan và những lễ kỷ niệm nặng về trần tục. Để thể hiện tốt hơn những khía cạnh này trong âm nhạc, Bartók sử dụng Thang âm Di Gan Hungary và ông đưa vào các hòa âm, các nốt bấm kép và nhiều cú vĩ nhẹ và nặng khác nhau trong bè violin.
Ngày 26 tháng 9 năm 1945, Béla Bartók qua đời ở tuổi 64 tại một bệnh viện ở Thành phố New York do biến chứng của bệnh bạch cầu.
Ngày 19/1/2024
Trịnh Minh Cường dịch và tổng hợp từ internet
Nhân bắt đầu khám phá toàn bộ sáng tác của ông

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...