Âm nhạc là một nghệ thuật có mối quan hệ giữa nghệ sĩ và công chúng thưởng thức thuận lợi bậc nhất. Nhạc sĩ sáng tác hoặc tự mình biểu diễn hoặc nhờ một nhạc sĩ biểu diễn và thính giả thưởng thức nó tại các phòng hòa nhạc ở mọi nơi. Tất nhiên hội họa còn đơn giản hơn khi tranh của họa sĩ sau khi vẽ xong có thể được thưởng thức sáng tác ngay lập tức, còn với sáng tác âm nhạc tác giả hay nghệ sĩ phải mất thời gian luyện tập mới đạt được mức để thính giả có thể thưởng thức được. Nhưng âm nhạc có một lợi thế khác ở chỗ cùng một tác phẩm sẽ được trình tấu nhiều lần không nhưng khác nhau về nghệ sĩ biểu diễn mà còn khác nhau về cả địa điểm và thời gian. Mỗi lần có thể tạo ra các sắc thái cảm xúc khác nhau. Mối quan hệ này được khép kín nhờ một cầu nối là nhà tổ chức hay nhà sản xuất với sản phẩm đầu cuối là các buổi hoà nhạc. Công nghệ thu âm ra đời đã tạo nên một cuộc cách mạng trong hoạt động âm nhạc. Nhờ công nghệ này, mối quan hệ giữa nghệ sĩ sáng tạo, gồm cả sáng tác và biểu diễn, và thính giả đã trở nên gần gũi hơn bao giờ hết. Sản phẩm đầu cuối là băng đĩa hay clip đã tạo thành một thị trường nghệ thuật khổng lồ mà chỉ điện ảnh mới sánh được. Sự sôi động của thị trường này không khác biệt quá nhiều ở các nền kinh tế văn hóa khác nhau. Nhưng trong thị trường này có sự khác biệt lớn giữa hai dòng nhạc vẫn song hành suốt chiều dài lịch sử: nhạc cổ điển và nhạc đại chúng. Sự khác biệt này lớn hơn ở những thị trường có văn hóa khác biệt so với phương Tây là nơi sản sinh ra dòng nhạc cổ điển, và Việt Nam là một trong số đó. Sau đây là nhận định của tôi về từng phía trong mối quan hệ tay ba này ở Việt Nam.
Về
thính giả
Qua truyền
thông về hoạt động hòa nhạc cổ điển trên các phương tiện truyền thông
và mạng xã hội có thể thấy rằng dù số lượng thính giả của dòng nhạc
cổ điển ở Việt Nam ít hơn nhiều so với dòng nhạc đại chúng, nhưng
cả số lượng và chất lượng vẫn tăng trưởng đều theo thời gian. Họ
dùng mọi phương tiện truyền thông từ website đến các trang mạng xã
hội để quảng cho sở thích âm nhạc
của họ. Họ tự tổ chức những buổi hòa nhạc, thậm chí huy động được
cả dàn nhạc giao hưởng, họ tham gia bảo trợ cho Dàn nhạc giao hưởng
quốc gia. Như suốt chiều dài lịch sử dòng nhạc kén thính giả này đã cho thấy,
sau các nghệ sĩ những người đam mê là lực lượng quan trọng nhất cho sự
phát triển của dòng nhạc này.
Về sáng
tác
Việc các
nhạc sĩ sáng tác ưu tiên viết nhạc đại chúng hơn nhạc cổ điển là điều tất
yếu. Dẫu vậy mảng sáng tác dòng nhạc cổ điển vẫn luôn lặng lẽ phát
triển. Vào những năm 1930 nền tân nhạc bắt đầu hình thành ở Việt nam tất
nhiên với dòng nhạc đại chúng. Không lâu sau đó dòng nhạc cổ điển đã xuất
hiện những sáng tác có giá trị. Khoảng năm 1960 nhà soạn nhạc Hoàng
Việt đã cho ra đời bản giao hưởng đầu tiên của nền âm nhạc Việt Nam –
Giao hưởng số 1 “ Quê hương”. Đến nay đã có biết bao sáng tác ở mọi
thể loại của dòng nhạc cổ điển ra đời, nhưng chỉ một số rất ít trong
đó đã được giới thiệu trong những buổi hòa nhạc chủ yếu dành cho các
tác giả lớn của Âu Mỹ.
Về biểu
diễn
Ngay từ
khi bắt đầu có cơ sở đào tạo đầu tiên ở Việt Nam, lực lượng biểu diễn và
sáng tác luôn được đào tạo đồng thời. Tuy nhiên như thông lệ, các chuyên
ngành biểu diễn thường được người học ưa chuộng hơn các ngành sáng tác và
lý luận. Không ít nhạc sĩ biểu diễn được đào tạo ở nước ngoài và
phần lớn họ đã về nước làm việc. Hiện Việt Nam đang có 5 dàn nhạc
giao hưởng, riêng Hà Nội có đến 4 dàn và điều đó thể hiện một sự quan tâm
đáng mừng từ phía nhà nước dù có ý kiến cho rằng hơi thiên về số lượng thay vì
chất lượng. Đặc biệt trong 4 dàn nhạc giao hưởng có một dàn thuộc sở
hữu tư nhân mới được lập gần dây và là một mốc đáng ghi nhận trong
đời sống âm nhạc Việt Nam. Hằng năm vẫn có một số lượng nhất định
các nghệ sĩ ca sĩ tốt nghiệp tại các cở sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp
lớn nhỏ. Thực tế cho thấy lực lượng nhạc sĩ biểu diễn đủ trình độ
để đảm bảo trách nhiệm chuyên môn của mình.
Về sản
xuất
Là
người nghe nhạc hàng ngày với hầu hết các định dạng băng cassette,
đĩa nhựa, đĩa CD và nhạc trực
tuyến, người viết bài thấy chất lượng ghi âm và sản xuất đĩa CD của
Việt Nam dù chưa bằng các thương hiệu lớn trên thế giới nhưng sự khác
biệt chưa đủ lớn nên thính giả có thể tạm thời chấp nhận . Người ta thường
cho rằng việc sản xuất âm nhạc cổ điển đòi hỏi trình độ sản xuất
cao hơn nhạc đại chúng. Điều này không sai nhưng sự chênh lệch đó đã
được đạt lên vai của các nghệ sĩ biểu diễn. Xin lưu ý đa số các
thính giả nhạc cổ điển thường nghe nhạc trực tuyến với chất lượng
âm thanh tất nhiên không so được với đĩa CD dù được sản xuất trong
nước. Đã có một tín hiệu đáng hy vọng về phương diện này khi có một nghệ sĩ
piano đang nỗ lực vận động các nhà bảo trợ đầu tư cho nhạc cổ điển Việt Nam một
phòng thu tiêu chuẩn quốc tế. Cô cho rằng một nền âm nhạc không thể phát triển
nếu thiếu một phong thu đạt tiêu chuẩn quốc tế. Rất mong ý tưởng của cô sớm
thành hiện thực.
Đôi điều trăn
trở
Có câu
hỏi là một thính giả muốn nghe các sáng tác nhạc cổ điển của các
tác giả Việt Nam họ sẽ nghe bằng cách nào? Không ít bạn nhạc của
tôi đã hỏi về cách để nghe bản giao hưởng đầu tiên của Việt Nam - Giao hưởng “Quê Hương” của nhạc sĩ Hoàng
Việt? Tôi, một người nghe nhạc cổ điển từ nhỏ, đành sượng sùng trả
lời rằng tôi không biết. Tôi mới nghe loáng thoáng một lần qua sóng phát
thanh. Một bạn khác đưa ra một file ghi âm bản giao hưởng này với chất
lượng âm thanh rất tồi. Các nghệ sĩ và nhà sản xuất Việt Nam hoàn
toàn đủ khả năng để diễn tấu và sản xuất một CD, hoặc chí ít một clip
cho bản giao hưởng này, một sản phẩm nghệ thuật có tính lịch sử này
xứng đáng được tôn vinh và quảng bá. Ngoài tác phẩm quan trọng này,
còn biết bao sáng tác của nhiều thế hệ nhạc sĩ sáng tác để góp
phần tạo dựng nên một nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam cũng rất
đáng được giới thiệu cho nhóm thính giả. Thính giả đã có, chỉ thiếu
sự quan tâm và chi phí sản xuất thôi.
Trong
lịch sử âm nhạc thế giới, để những sáng tác của nhà soạn nhạc đến
được thính giả, các nhà bảo trợ đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Họ là những cá nhân, tổ chức rất giàu hoặc là chính phủ. Điểm
chung của họ là sự quan tâm quan tâm với nhiều mức độ khác nhau đến
dòng nhạc bị cho là hàn lâm này. Họ còn học chơi nhạc và sáng tác
nhạc. Thậm chí có vị hoàng đế là Frederick Đại đế của Phổ còn có sáng
tác âm nhạc đủ sức sống đến ngày nay. Cũng có những nhà soạn nhạc
được chính phủ của họ bảo trợ. Ví dụ chính phủ Phần Lan đã trợ cấp
hàng năm cho Jean Sibelius để nhà soạn nhạc bỏ công việc giảng dạy và chuyên
tâm vào việc sáng tác. Các nước có nền âm nhạc phát triển thường có
hiệp hội những người hâm mộ nhà soạn nhạc nổi tiếng của họ và họ
luôn chung tay để giúp đưa sáng tác của nhạc sĩ đến được thính giả.
Có lẽ
Việt Nam là một nước nghèo đến mức nhạc cổ điển chưa bao giờ được
lọt vào mắt xanh của chính phủ. Đáng tiếc hơn nữa là nó cũng chưa
có cơ hội lọt vào mắt xanh của giới nhà giàu. Có đại gia đã nuôi
hẳn một dàn nhạc giao hưởng nhưng chưa thấy bất kỳ động thái nào
giới thiệu các nhà soạn nhạc Việt Nam. Lời đồn đại rằng mục đích
của họ thực chất không phải âm nhạc có thể có lý.
Sau khi
lập nước, chúng ta đã sớm đầu tư
cho đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp là các trường âm nhạc chuyên nghiệp
và các hoạt động của đời sống âm nhạc là các dàn nhạc giao hưởng
và các nhà hát. Nghĩa là chúng ta đã quan tâm thích đáng đến các
nhạc sĩ biểu diễn và thính giả của các nhà hát. Đến nay chúng ta
đã có một thị trường nhạc đại chúng sôi động như mọi nơi khác trên
trái đất này. Nhưng còn dòng nhạc cổ điển, chúng ta mới có hoạt
động biểu diễn với chất lượng không xoàng, nhưng hoạt động sản xuất
vẫn gần là con số 0. Vì sao vậy?
Đã có
một số CD nhạc cổ điển đã được phát hành ở Việt Nam nhưng có thể kể ra ở
đây: một vài, không đến 5, album guitar cổ điển, một album saxophone thổi
cello suite của J S Bach, một album piano độc tấu(thu ở châu Âu), và có lẽ hết
rồi đấy. Liệu có quá ít so với thực lực của các nghệ sĩ nhạc cổ điển Việt ?
Viết từ 29
Tết Quý Sửu - 18/1/2023
27 Tết Ât
Tỵ chỉnh sửa
Trịnh
Minh Cường
Nhận xét
Đăng nhận xét