Nhân sinh nhật lần thứ 75 của mình vào năm 1906, nghệ sĩ violin huyền thoại Joseph Joachim tuyên bố rằng nước Đức có bốn bản violin concerto tuyệt vời. Trong bốn cái tên danh cầm đưa ra đương nhiên phải có Beethoven, Mendelssohn và Brahms, và thứ tư là bản concerto Sol thứ của Max Bruch (1838-1920). Thậm chí ông còn cho rằng bản của Bruch tráng lệ và quyến rũ nhất trong số đó. Bruch đã sáng tác bản concerto này trong thời gian làm giám đốc âm nhạc cung đình ở Koblenz, và khi chúng ta kỷ niệm 100 năm ngày mất của ông vào năm 2020, tên tuổi ông chủ yếu gắn liền với concerto Sol thứ. Hầu hết các sáng tác khác của ông, mặc dù đều được viết theo phong cách Lãng mạn trữ tình và mang tính cá nhân cao, nhưng đều dần bị bỏ quên. Thậm chí các nhà phê bình đã xếp Bruch vào nhóm các bậc thầy nhỏ. Chắc chắn rằng Bruch không phải là một nhà cách mạng có những đột phá, vì phong cách sáng tác của ông không bao giờ dao động trong suốt sự nghiệp của mình. Ông nổi lên trên nền âm nhạc Đức đang do Mendelssohn thống trị, dưới bóng của Wagner và Brahms bao trùm và qua đời trong vòng một thập kỷ kể từ buổi biểu diễn đầu tiên vở Pierrot lunaire của Schoenberg.
Max Bruch sinh ra ở Cologne, là con trai của một quan chức cảnh sát và một ca sĩ tài năng. Max đã được học nhạc với mẹ từ nhỏ và bắt đầu sáng tác khi lên 9. Bậc thầy Ignaz Moscheles ngay lập tức nhận ra tài năng âm nhạc phi thường của cậu. Khi 14 tuổi, Bruch đã đoạt được Giải thưởng Quỹ Mozart mơ ước ở Frankfurt nhờ trình bày một tứ tấu đàn dây. Thành công này giúp anh có cơ hội học tập với các bậc thầy Ferdinand Hiller, Carl Reinecke và Ferdinand Breunung. Việc học với Hiller có phần góp phần làm Bruch trở nên thành một nhạc sĩ bảo thủ. Và sáng tác quan trọng đầu tiên của anh là một vở opera dựa trên một vở Singspiel(opera hài của người Đức-ND) của Goethe. Được khuyến khích đi du lịch khắp nước Đức, Bruch đã đến thăm Leipzig và các trung tâm văn hóa khác nhưng quyết định trụ lại ở Mannheim. Ông đã sáng tác cantata Fithjof và được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Tiếp theo là thành công của vở opera Loreley vào năm 1863. Vở opera dựa trên truyền thuyết sông Rhine với libretto của Emanuel Geibel. Vở diễn được Clara Schumann khen ngợi hết lời. Không lâu trước khi qua đời, Mendelssohn cũng đã dự tính biểu diễn vở opera này. Sau một vài buổi biểu diễn thành công, những cuộc phục hưng ngắn ngủi ở Leipzig dưới sự chỉ đạo của Mahler trẻ tuổi (1887) và ở Stuttgart dưới sự chỉ đạo của Pfitzner (1916), vở opera đã biến mất khỏi kịch mục và phải đến cuối thế kỷ 20 mới tái xuất trên sàn diễn.
Sau khi rời Mannheim, Bruch đến Paris và Brussels, nhưng cuối cùng nhận lời làm giám đốc âm nhạc ở Koblenz vào năm 1865. Tình bạn của ông với các nghệ sĩ violin David, Joachim, Sarasate và Willy Hess đã truyền cảm hứng cho chín tác phẩm hòa nhạc cho cây đàn dây. Bruch thực sự ghét đàn piano, gọi nó là “cái bẫy lạch cạch buồn tẻ, violin có thể hát một giai điệu hay hơn nhiều so với piano, mà giai điệu là linh hồn của âm nhạc.” Nhưng concerto cho 2 piano của ông lại không cho thấy tình cảm ghét đó mà lại rất đằm thắm: https://open.spotify.com/album/4gEqlYmI8POAMpI3iHMaZr...
Năm 1868 Bruch cho ra mắt violin concerto đàu tiên và ngay lập tức chinh phục thính giả cùng các nghệ sĩ violin. Tiếp theo một bổ nhiệm ở Sonderhausen và một thời gian ngắn làm chỉ huy ở Berlin, Bruch chuyển đến Bonn và thành danh như một nhà soạn nhạc lỗi lạc người Đức làm việc độc lập. Năm 1879, Bruch đã biểu diễn thành công các vở oratorio thế tục Odysseus và Das Lied von der Glocke cho Hiệp hội Philharmonic Liverpool. Dựa vào sức mạnh của hai buổi biểu diễn này cùng một số cân nhắc về tài chính, Bruch đã được kế nhiệm Sir Julius Benedict làm nhạc trưởng của Hiệp hội Philharmonic Liverpool. Thời gian ở Anh của ông có phần lộn xộn vì ông không thể hòa hợp với những nghệ sĩ mà theo Bruch “có những tiêu chuẩn khá tùy hứng”. Ngoài ra, các sáng tác của ông có sức hấp dẫn hạn chế ở Quần đảo Anh và Hoa Kỳ vì tâm lý chống Đức ngày càng tăng trong quá trình chuẩn bị cho Thế chiến thứ nhất.
Bruch rời Liverpool vào năm 1883 để trở thành giám đốc của dàn nhạc Breslau Orchesterverein và ở lại đó đến cuối mùa diễn năm 1890. Bruch dành những thập kỷ cuối đời ở Berlin, làm giáo sư sáng tác cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1910, và chỉ huy dàn nhạc, dạy các lớp master class đến khi qua đời vào năm 1920. Ông rất được kính trọng với tư cách là một người thầy. Hai trong số sinh viên của ông sau trở thành Ottorino Respighi và Vaughan Williams nổi tiếng. Đại học Oxford đã trao cho ông bằng tiến sĩ danh dự. Sở hữu tài năng âm nhạc phi thường của mình, Bruch đã được định sẵn để trở thành một trong những nhà soạn nhạc có di sản lớn lao. Tuy nhiên, hứa hẹn đó vẫn chưa thành hiện thực bởi ông không chỉ làm việc dưới cái bóng quá lớn của Brahms mà còn kiên định giữ lại một lối mòn sáng tác dựa trên sự tôn kính sâu sắc của ông đối với âm nhạc của Mendelssohn và Schumann. Nhưng hơn thế nữa, sự chán ghét hoàn toàn và sự chỉ trích thẳng thắn của ông đối với Trường phái Đức mới của Wagner và Liszt đã khiến ông cực kỳ khó ưa dưới mắt các nhà phê bình cũng như người đương thời. Bruch qua đời trong sự vỡ mộng. Là một người bảo thủ ngay cả theo tiêu chuẩn giữa thế kỷ 19, phong cách âm nhạc của ông đã lạc hậu so với thời đại.
Bruch đã sáng tác hơn 200 tác phẩm, trong số đó có các vở opera, giao hưởng, tác phẩm sân khấu quy mô lớn dành cho dàn hợp xướng và dàn nhạc cùng nhiều concerto các loại. Mặc dù phần lớn các tác phẩm của ông hiện chưa được dàn dựng nhưng chúng vẫn toát lên vẻ đẹp đầy trí tưởng tượng, sinh lực mạnh mẽ và nghệ thuật tinh xảo.
6/1/2024
Trịnh Minh Cường dịch và tổng hợp từ các nguồn trên internet
Nhận xét
Đăng nhận xét