Chuyển đến nội dung chính

LỊCH SỬ THỂ LOẠI OVERTURE

 Thuật ngữ overture bắt nguồn từ ouverture trong tiếng Pháp có nghĩa đen là "mở đầu". Đây là phần khí nhạc mở đầu cho một vở ballet, opera hoặc oratorio trong thế kỷ XVII. Về sau các nhà soạn nhạc như L Van Beethoven, F. Mendelssohn hay Brahms đã sáng tác overture như sáng tác độc lập. Những tác phẩm này thường được biểu diễn mở đầu một buổi hòa nhạc giao hưởng.

Ý tưởng về một phần khí nhạc mở đầu cho một vở opera đã xuất hiện trong thế kỷ XVII. Các vở opera đầu tiên trong lịch sử là Euridice của Peri(1600) được mở đầu bằng nhưng đoạn khí nhạc ngắn gọi là ritornello: https://open.spotify.com/track/4iaqrNIH6n0dWh8VmBn5gz?si=7ac32e99e8b14ce6

Và vở L'Orfeo(1607) của Monteverdi mở đầu bằng một toccata theo kiểu  fanfare cho kèn trumpet câm tiếng. Quan trọng hơn là phần mở đầu này có cả đoạn hát hội thoại giữa các nhân vật ngụ ngôn để giới thiệu các chủ đề xuất hiện của câu chuyện của vở diễn: https://open.spotify.com/track/3bsGu9uiwqybcfXD4zKYmf?si=53048ce17ce34e5a

Overture Pháp

Là một hình thức âm nhạc, overture Pháp xuất hiện lần đầu trong vở ballet cung đình của Jean-Baptiste Lully. Sáng tác này của ông được phát triển từ một hình thức tương tự gồm hai phần gọi là ouverture, được tìm thấy trong các vở ballet cung đình Pháp từ năm 1640. Overture Pháp bao gồm một phần giới thiệu chậm rãi theo "tiết tấu nhiều chấm dôi" rõ rệt (tức là nhấn cường điệu, nếu hợp âm đầu tiên bị bỏ qua), tiếp theo là một chương sôi nổi theo hình thức fugato(fugue nhỏ). Overture thường được nối tiếp bằng  một loạt các vũ khúc trước khi màn sân khấu kéo lên và thường trở lại sau Lời mở đầu để giới thiệu hành động thích hợp. Kiểu ouverture này cũng được sử dụng trong các opera Anh, đáng chú ý nhất là vở Dido và Aeneas của Henry Purcell. Do đó, cung cách và chức năng tiết tấu đặc biệt của nó đã dẫn đến kiểu overture Pháp trong các sáng tác của các nhà soạn nhạc cuối Baroque như Johann Sebastian Bach, Georg Friedrich Händel và Georg Philipp Telemann. Kiểu này thường được sử dụng như các prelude cho các tổ khúc hoặc nhiều hơn trong các sáng tác thanh nhạc như cantata, ví dụ như hợp xướng mở đầu của cantata Nun komm, der Heiden Heiland, BWV 61 của Bach. Handel cũng sử dụng overture Pháp trong một số vở opera Ý của mình như Giulio Cesare. Overture Pháp cũng có thể là một sáng tác như tổ khúc gồm nhiều chương như Overture theo phong cách Pháp BWV 831 của J S Bach gồm 8 chương với chương mở đầu là ouverture: https://open.spotify.com/album/1mtWt3qH4K6QQgvDJMEUP1?si=yb2ASBaeQRGWHUgxRDDWvg

Overture Ý

Ở Ý, một hình thức riêng biệt gọi là "overture" xuất hiện vào những năm 1680. Chúng được Alessandro Scarlatti  sáng tác cho các vở opera của mình rồi lan rộng khắp châu Âu, và thay thế cho overture Pháp trở thành overture opera tiêu chuẩn vào giữa thế kỷ XVIII. Hình thức mẫu của nó bao gồm ba đoạn cùng giọng khác nhịp độ: nhanh-chậm-nhanh. Phần mở đầu thường ở nhịp hai trong giọng trưởng; phần chậm thường khá ngắn và đôi khi ở một giọng tương phản; chương kết giống vũ khúc thường theo tiết tấu của gigue hoặc minuet và trở lại giọng của phần mở đầu. Khi kiểu này phát triển, chương đầu tiên thường kết hợp các yếu tố như fanfare cho trumpet và có mô hình của cái gọi là "hình thức sonatina" - hình thức sonata không có phần phát triển, và phần chậm trở nên dài hơn và trữ tình hơn. Các overture Ý thường tách khỏi các vở opera của họ và được chơi như các tiết mục hòa nhạc độc lập. Trong bối cảnh này, chúng trở nên quan trọng trong giai đoạn đầu của lịch sử thể loại giao hưởng.

Thế kỷ XVIII

Trước thế kỷ XVIII, giao hưởng và overture gần như có thể hoán đổi cho nhau: overture của các vở opera được biểu diễn như tác phẩm nhạc cụ độc lập, và giao hưởng(sinfonia) được đặt trước các vở opera thì thành overture. Với sự phát triển của opera seria, overture bắt đầu được phân biệt với giao hưởng rõ ràng hơn và các nhà soạn nhạc bắt đầu gắn kết overture với nội dung của vở opera của họ một cách kịch tính và cảm xúc hơn. Một số yếu tố trong vở opera được báo trước trong overture theo tư tưởng âm nhạc và mọi yếu tố khác trên sân khấu để tăng cường cốt truyện. Một ví dụ như vậy là vở opera La Magnifique của André-Ernest-Modeste Grétry với overture có dẫn một số aria trong đó. Kiểu hỗn hợp này vẫn tồn tại trong các overture của nhiều tác phẩm nhạc kịch trong thế kỷ XX và XXI.

Thế kỷ XIX

Trong các vở opera của thế kỷ XIX, Overture, Vorspiel, Einleitung, Introduction hay bất kỳ tên nào khác thường rõ ràng là phần nhạc được chơi trước khi màn sân khấu mở ra. Vorspiel to Lohengrin của Richard Wagner là một chương ngắn độc lập dựa trên nhạc của Grail. Trong các vở opera Ý khoảng sau năm 1800, overture được gọi là sinfonia như thời Baroque. Fisher cũng lưu ý rằng thuật ngữ Sinfonia avanti l'opera(nghĩa đen là "bản giao hưởng trước vở opera") là "một thuật ngữ ban đầu để chỉ một sinfonia dùng để bắt đầu một vở opera, tức là như một overture chứ không phải một overture để bắt đầu một phần sau của tác phẩm.”

Overture hòa nhạc

Đầu thế kỷ XIX

Mặc dù vào cuối thế kỷ XVIII, các bản overture của opera đã bắt đầu được trình diễn như những tiết mục độc lập trong hòa nhạc. Overture hòa nhạc được định nghĩa cụ thể là một tác phẩm hòa nhạc riêng lẻ không liên quan đến biểu diễn trên sân khấu và thường dựa trên một số chủ đề văn học. Xu hướng này bắt đầu xuất hiện vào đầu thời Lãng mạn. Carl Maria von Weber đã viết hai bản overture hòa nhạc: Der Beherrscher der Geister: https://open.spotify.com/track/74YeBl1WWqhgc7oQP1R1Za?si=43a2ce4aa2d04c76  

và Jubel-Ouvertüre ('Jubilee Overture', 1818, kết hợp God Save the King ở phần cao trào):

https://open.spotify.com/track/6zZmCK48QfrHh2qJqO0A7i?si=921c3d88f2824f85

Tuy nhiên, overture Giấc mộng Đêm Hè(1826) của Felix Mendelssohn thường được coi là bản nhạc dạo đầu hòa nhạc đầu tiên: https://open.spotify.com/track/39CsykHsCr4roS7gJeWGnh?si=d7e3f6eab6114e8a   

Những đóng góp khác của Mendelssohn cho thể loại này còn có các overture khác:

 Calm Sea and Prosperous Voyage (1828) https://open.spotify.com/track/5YSIddOTLPddAttjdk1kRm?si=6556b459a159417e

The Hebrides (1830; còn được gọi là Fingal's Cave) https://open.spotify.com/track/5u04CcLiM8zflXQIPcyprv?si=50a307ee0fa547b9

Die schöne Melusine (The Fair Melusine, 1834) https://open.spotify.com/track/4OEOpTYiLFsPXi3SHPQp5j?si=f40506a2c42441de

và Ruy Blas (1839) https://open.spotify.com/track/2RVpc5WFgXYbSSfvPJjFXi?si=080c54608565440c

 

Những overture hòa nhạc đáng chú ý khác có hai overture của Hector Berlioz:

  Les Francs juges (1826) https://open.spotify.com/track/4YzrAX79vOmJohugW6q9uU?si=d82c86a032d34a7a

Và Le corsaire (1828) https://open.spotify.com/track/7BflW23CmVZqiGNfasIvBq?si=8d3202b8100849b6

 

Cuối thế kỷ XIX

Vào những năm 1850, overture hòa nhạc bắt đầu được thay thế bằng giao hưởng thơ - một sáng tạo mới của Franz Liszt. Sự khác biệt giữa hai thể loại này là sự tự do định hình hình thức âm nhạc theo các yêu cầu về chương trình bên ngoài. Giao hưởng thơ trở thành hình thức được ưa chuộng đối với các nhà soạn nhạc "cấp tiến" hơn như César Franck, Camille Saint-Saëns, Richard Strauss, Alexander Scriabin và Arnold Schoenberg. Còn những nhà soạn nhạc bảo thủ hơn như Anton Rubinstein, Tchaikovsky, Johannes Brahms, Robert Schumann và Arthur Sullivan vẫn trung thành với overture.

Trong thời đại giao hưởng thơ đã trở nên phổ biến, Brahms đã viết Academic Festival Overture, Op. 80

https://open.spotify.com/track/2luhnBAxsk3TYQa8yzP0Yz?si=bb47cb9fa2a54d9e

Và Tragic Overture, Op. 81 https://open.spotify.com/track/5KidQfItiHFMvxRnWNbWFD?si=c7471eca94d5476b  

Một ví dụ rõ ràng của overture chịu ảnh hưởng của giao hưởng thơ là Overture 1812 của Tchaikovsky

https://open.spotify.com/track/3FTtol76FmRdVNRUO42csG?si=8b3c14e885ab4847   

Và overture Romeo và Juliet cũng nổi tiếng không kém của ông cũng được dán nhãn là 'overture - fantasy'  https://open.spotify.com/track/1a6lI5wiVGditty2m8clCJ?si=307f714f142f4660

Thế kỷ XX

Trong âm nhạc châu Âu sau năm 1900, một ví dụ về overture thể hiện mối liên hệ với hình thức truyền thống là Festive Overture, Op. 96 (1954) của Dmitri Shostakovich, gồm hai phần được liên kết, "Allegretto" và "Presto" (Temperley 2001) https://open.spotify.com/track/6mGBtBDjX349ie8oNLnTM3?si=35de99f6d9e54901  

A Grand, Grand Overture, Op. 57 (1956) của Malcolm Arnold, là một sáng tác nhại lại các overture hòa nhạc cuối thế kỷ XIX viết cho một dàn nhạc lớn với đàn organ, các nhạc cụ đồng bổ sung và các bè bắt buộc cho bốn khẩu súng trường, ba máy hút bụi Hoover (hai máy đứng giọng Xi giáng, một máy nằm ngang có ống hút có thể tháo rời ở giọng Đô) và một máy đánh bóng sàn chạy điện giọng Mi giáng. Tác phẩm đề tặng "cho Tổng thống Hoover" https://open.spotify.com/track/6hzIt1QdEZDDaDVdzXKIG2?si=f891b53782c14316

Trong phim ảnh, một overture là một bản nhạc tạo nên tâm trạng cho bộ phim trước khi phần giới thiệu bắt đầu. Những ví dụ nổi tiếng bao gồm Cuốn theo chiều gió (1939) https://open.spotify.com/track/0ncgzxhnpPPGsEuT2nK7FE?si=84366d9a09064004

và Lawrence of Arabia (1962) https://open.spotify.com/track/0oUTiPt9J4v3cfMgCSk230?si=9d8257511af04e92

Chiều thứ Bảy 4/1/2025

Trịnh Minh Cường  dịch và biên tập từ wikipedia

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...