Tổng quan về giao hưởng
Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời
lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc.
Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường
được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms,
Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm
họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho
các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho
phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm
âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu.
Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc
này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến
các nhà soạn nhạc đã nêu trên.
Giao hưởng đầu tiên
Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung
quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể
cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho opera, đỉnh cao của thanh nhạc cổ
điển. Các overture, được chơi mở màn trong các vở opera Ý, đã được gọi là
Sinfonia và đó là nơi giao hưởng hiện đại nhận được tên của nó.
Khi giao hưởng đang lan tuyền khắp châu Âu, một trong những
điểm đến đáng chú ý trước khi nó được gắn kết với Vienna và Paris là thị trấn
Mannheim của Đức. Vào giữa những năm 1700, Mannheim là một trong những trung
tâm âm nhạc hoạt động mạnh nhất châu Âu và dàn nhạc ở đó đã nổi tiếng là một
trong những dàn nhạc hay nhất châu Âu dưới sự chỉ đạo của nhà soạn nhạc người
Bohemia Johann Stamitz(1717-1757).
Giao hưởng và Joseph Haydn
Giao hưởng đã đạt được sự tăng trưởng đáng kể nhất dưới thời
nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn. Đến cuối đời, Haydn đã viết hơn 100 giao hưởng và ông đã định hình thể loại này
như chúng ta nghe ngày nay. Lịch sử ghi nhận Haydn là cha đẻ của giao hưởng về
chất lượng các tác phẩm của ông và bởi những giao hưởng sớm nhất được trình diễn
thường xuyên khi xuất hiện thời kỳ cổ điển trong thế kỷ 19 là các giao hưởng của
của Haydn.
Chương 1: Hình thức sonata-allegro
Chương 2: Andante trong hìn thức 3 đoạn hoặc một chủ đề được
thay đổi và biến khúc.
Chương 3: Minuet và Trio
Chương 4: Chương kết thường trong hình thức rondo nhưng đôi
khi trong hình thức sonata.
Với bản phác thảo này, Haydn sẽ tăng khả năng biểu cảm của giao
hưởng cũng như thiết lập một tiêu chuẩn cho tất cả các nhà soạn nhạc về sau viết
giao hưởng.
Giao hưởng của Haydn đã phát triển trong suốt sự nghiệp của
ông. Sự phát triển của phong cách giao hưởng của ông sẽ dễ hiểu hơn khi chia các
sáng tác giao hưởng của ông thành 3 giai đoạn: đầu, giữa và cuối.
Những giao hưởng đầu tiên (1757-1768)
Trong giai đoạn này, Haydn nghĩ rằng giao hưởng là một hình
thức mà ông có thể thử nghiệm với bố cục, và ông nghĩ đó là một thể loại giải
trí nhẹ cho tầng lớp tinh hoa. Nhưng riêng với giao hưởng, các giao hưởng đầu
tiên của Haydn đã cố gắng thể hiện các kỹ năng của nghệ sĩ bằng cách thể hiện
các đoạn độc tấu cho các nghệ sĩ biểu diễn nó, và tính linh hoạt của ông với tư
cách một nhà soạn nhạc có thể tạo ra chất liệu tươi mới cho mọi giao hưởng.
Khi cảm nhận của công chúng về giao hưởng bắt đầu thay đổi,
quan điểm của Haydn về giao hưởng cũng bắt đầu thay đổi. Haydn bắt đầu coi giao
hưởng là một hình thức nghệ thuật nghiêm túc hơn, và kết quả là ông bắt đầu đặt
ra những yêu cầu âm nhạc lớn hơn cho các nhạc công của mình, sử dụng các kỹ thuật
sáng tác đối vị hơn, độ động và biểu cảm âm nhạc tương phản hơn, và tiết tấu phức
tạp hơn. Haydn cũng bắt đầu kết hợp các yếu tố của phong trào văn học Xung kích
và Bão táp mới vào các giao hưởng của mình. (phong trào này nổi bật ở chỗ thể
hiện cảm xúc cực độ). Bằng cách kết hợp Xung kích và Bão táp vào các giao hưởng
của mình, Haydn đã có thể nâng cao cảm xúc trong âm nhạc của mình và đem đến các
đoạn nhạc tương phản mạnh mẽ.
Những giao hưởng này, chủ yếu là các giao hưởng Paris và
London, là đỉnh cao của sự nghiệp sáng tác của Haydn. Vào thời điểm Haydn đang
viết những giao hưởng này, ông đã thêm nhiều nhạc cụ vào dàn nhạc chủ yếu là
flute và bassoon, đôi khi ông cũng phối hợp clarinet, timpani và trumpet. Ngôn
ngữ hòa âm của ông là sự tiến bộ chưa từng
có trong sự nghiệp và sự phát triển ý tưởng âm nhạc của ông đã được cải thiện đến
mức cao nhất. Những giao hưởng này là những giao hưởng đáng nhớ nhất của Haydn,
và ngày nay chúng vẫn được biểu diễn thường xuyên trong các phòng hòa nhạc trên
khắp thế giới.
Vào thời điểm Haydn qua đời, giao hưởng đã trở thành đỉnh
cao của âm nhạc cổ điển. Cánh cửa đã mở cho Beethoven và nhiều nhà soạn nhạc vĩ
đại khác đã trở thành quyền lực bằng việc sáng tác giao hưởng và biến nó thành
hình thức nghệ thuật mà chúng ta thừa nhận như ngày nay.
Đề xuất nghe dẫn chứng:
Sammartini - Symphony 32 in F Major
Stamitz - Symphony in E-flat Major op. 11 no. 3
Haydn (Early) - Symphony 8 (Le Soir)
Haydn (Middle) - Symphony 45 (Farewell)
Hay quá. Hôm nay em mới có chút thời gian ngồi đọc. Đọc bằng tiếng Việt có niềm vui rất khác so với đọc bằng tiếng Anh.
Trả lờiXóa