Chuyển đến nội dung chính

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng

Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc.

Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu.

Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên.

Giao hưởng đầu tiên

Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho opera, đỉnh cao của thanh nhạc cổ điển. Các overture, được chơi mở màn trong các vở opera Ý, đã được gọi là Sinfonia và đó là nơi giao hưởng hiện đại nhận được tên của nó.

 Các giao hưởng đầu tiên thường chỉ bao gồm 3 chương và được viết cho các dàn nhạc nhỏ hơn nhiều (25-30 người) và thời lượng cũng ngắn hơn nhiều (10-20 phút) so với những giao hưởng của hậu thế đã viết. Họ thường theo một cấu trúc các chương nhanh-chậm-nhanh với chương đầu tiên thường là có tempo allegro, chương thứ hai là andante, và chương kết sẽ là một vũ khúc dựa trên một vũ điệu phổ biến thời đó như gigue hoặc minuet.

 Nhà soạn nhạc nổi bật nhất trong thời kỳ đầu tiên của giao hưởng là nhà soạn nhạc người Ý Giovanni Battista Sammartini(1700-1775). Sammartini đã hợp nhất cấu trúc nhanh-chậm-nhanh vào hầu hết các giao hưởng của mình, và ông bắt đầu sử dụng một phiên bản đầu tiên của hình thức sonata cho các chương đầu tiên của mình. Hình thức sonata là một cấu trúc được sử dụng thường xuyên cho các chương đầu tiên của rất nhiều giao hưởng sau này. Sự phổ biến và thành công của giao hưởng cho phép nó lan tỏa khắp châu Âu và tiếp tục phát triển như một phương tiện sáng tác âm nhạc.

 Giao hưởng ở Mannheim

Khi giao hưởng đang lan tuyền khắp châu Âu, một trong những điểm đến đáng chú ý trước khi nó được gắn kết với Vienna và Paris là thị trấn Mannheim của Đức. Vào giữa những năm 1700, Mannheim là một trong những trung tâm âm nhạc hoạt động mạnh nhất châu Âu và dàn nhạc ở đó đã nổi tiếng là một trong những dàn nhạc hay nhất châu Âu dưới sự chỉ đạo của nhà soạn nhạc người Bohemia Johann Stamitz(1717-1757).

 Tầm quan trọng của Mannheim trong lịch sử của giao hưởng không chỉ liên quan đến thể loại, mà còn liên quan đến sự phát triển của dàn nhạc, phương tiện chính của giao hưởng. Dàn nhạc của Mannheim giành được tiếng tăm nhờ tính linh hoạt và biến thiên cường độ tuyệt vời, họ đã thiết lập một tiêu chuẩn mới mà phần còn lại của châu Âu buộc phải cố gắng để theo kịp. Khả năng của dàn nhạc có thể thay đổi cường độ từ rất nhẹ sang rất mạnh đã được người đương thời đặt thành một thuật ngữ riêng là Mannheim Crescendo (Mạnh lên kiểu Mannheim) và nhiều nhà soạn nhạc sau đó đã nhận ra hiệu quả này và đưa nó vào các tác phẩm của họ. Bằng cách nâng cao chất lượng các buổi trình diễn của dàn nhạc, điều này đã khích lệ nhiều nhà soạn nhạc thử viết giao hưởng.

 Stamitz cũng góp phần vào sự phát triển của giao hưởng với tư cách là nhà soạn nhạc đầu tiên thường xuyên sáng tác giao hưởng 4 chương. Ông bổ sung thêm chương 3 là Minuet (hay Menuet ) và Trio (phần thứ 3 trong hình thức 2 đoạn trước khi kết) trước chương kết Presto.

 Stamitz cũng mở rộng quy mô của hình thức sonata trong các chương đầu tiên của các giao hưởng của mình và tạo ra sự tương phản lớn hơn giữa hai nhóm chủ đề được ấn định trong hìn thức sonata khi so sánh với các tiền bối của ông (có thể nghe thấy trong Giao hưởng E-flat Op.11 số 3 ). Ông cũng tăng quy mô của dàn nhạc bằng cách tặng số lượng nhạc cụ và thêm nhạc cụ mới vào tác phẩm giao hưởng như oboe và horn(cor).

Giao hưởng và Joseph Haydn

Giao hưởng đã đạt được sự tăng trưởng đáng kể nhất dưới thời nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn. Đến cuối đời, Haydn đã viết hơn 100  giao hưởng và ông đã định hình thể loại này như chúng ta nghe ngày nay. Lịch sử ghi nhận Haydn là cha đẻ của giao hưởng về chất lượng các tác phẩm của ông và bởi những giao hưởng sớm nhất được trình diễn thường xuyên khi xuất hiện thời kỳ cổ điển trong thế kỷ 19 là các giao hưởng của của Haydn.

 Haydn tiểu chuẩn hóa hình thức 4 chương. Một giao hưởng điển hình của Haydn sẽ có cấu trúc như sau:

Chương 1: Hình thức sonata-allegro

Chương 2: Andante trong hìn thức 3 đoạn hoặc một chủ đề được thay đổi và biến khúc.

Chương 3: Minuet và Trio

Chương 4: Chương kết thường trong hình thức rondo nhưng đôi khi trong hình thức sonata.

Với bản phác thảo này, Haydn sẽ tăng khả năng biểu cảm của giao hưởng cũng như thiết lập một tiêu chuẩn cho tất cả các nhà soạn nhạc về sau viết giao hưởng.

Giao hưởng của Haydn đã phát triển trong suốt sự nghiệp của ông. Sự phát triển của phong cách giao hưởng của ông sẽ dễ hiểu hơn khi chia các sáng tác giao hưởng của ông thành 3 giai đoạn: đầu, giữa và cuối.

Những giao hưởng đầu tiên (1757-1768)

Trong giai đoạn này, Haydn nghĩ rằng giao hưởng là một hình thức mà ông có thể thử nghiệm với bố cục, và ông nghĩ đó là một thể loại giải trí nhẹ cho tầng lớp tinh hoa. Nhưng riêng với giao hưởng, các giao hưởng đầu tiên của Haydn đã cố gắng thể hiện các kỹ năng của nghệ sĩ bằng cách thể hiện các đoạn độc tấu cho các nghệ sĩ biểu diễn nó, và tính linh hoạt của ông với tư cách một nhà soạn nhạc có thể tạo ra chất liệu tươi mới cho mọi giao hưởng.

 Các giao hưởng giai đoạn giữa (1769-1781)

Khi cảm nhận của công chúng về giao hưởng bắt đầu thay đổi, quan điểm của Haydn về giao hưởng cũng bắt đầu thay đổi. Haydn bắt đầu coi giao hưởng là một hình thức nghệ thuật nghiêm túc hơn, và kết quả là ông bắt đầu đặt ra những yêu cầu âm nhạc lớn hơn cho các nhạc công của mình, sử dụng các kỹ thuật sáng tác đối vị hơn, độ động và biểu cảm âm nhạc tương phản hơn, và tiết tấu phức tạp hơn. Haydn cũng bắt đầu kết hợp các yếu tố của phong trào văn học Xung kích và Bão táp mới vào các giao hưởng của mình. (phong trào này nổi bật ở chỗ thể hiện cảm xúc cực độ). Bằng cách kết hợp Xung kích và Bão táp vào các giao hưởng của mình, Haydn đã có thể nâng cao cảm xúc trong âm nhạc của mình và đem đến các đoạn nhạc tương phản mạnh mẽ.

 Các giao hưởng cuối cùng (1785-1802)

Những giao hưởng này, chủ yếu là các giao hưởng Paris và London, là đỉnh cao của sự nghiệp sáng tác của Haydn. Vào thời điểm Haydn đang viết những giao hưởng này, ông đã thêm nhiều nhạc cụ vào dàn nhạc chủ yếu là flute và bassoon, đôi khi ông cũng phối hợp clarinet, timpani và trumpet. Ngôn ngữ  hòa âm của ông là sự tiến bộ chưa từng có trong sự nghiệp và sự phát triển ý tưởng âm nhạc của ông đã được cải thiện đến mức cao nhất. Những giao hưởng này là những giao hưởng đáng nhớ nhất của Haydn, và ngày nay chúng vẫn được biểu diễn thường xuyên trong các phòng hòa nhạc trên khắp thế giới.

 Mặc dù Haydn là một trong những nhà soạn nhạc sớm nhất đã viết giao hưởng và được biểu diễn thường xuyên trong suốt đời ông và cả sau khi ông qua đời, ông vẫn không phải là người khởi xướng ra giao hưởng (vốn là một quan niệm sai phổ biến). Hiện nay, không có một cá nhân nào được ghi nhận đã phát minh ra giao hưởng. Đúng hơn, nó bắt đầu như một sự kiện hòa nhạc phổ biến ở Ý và lan rộng khắp châu Âu và cuối cùng đến phần còn lại của thế giới. Và nó vẫn đang tăng trưởng và phát triển trên chặng đường của nó.

 Tuy nhiên việc coi Haydn là cha đẻ của thê loại giao hưởng cũng có căn cứ hợp lý. Chất lượng các giao hưởng của tuyệt vời đến mức thuyết phục các nhà soạn nhạc khác cùng sáng tác giao hưởng. Nhờ đó giao hưởng đã trở thành tiêu chuẩn của các nhà soạn nhạc từ đó về sau.

Vào thời điểm Haydn qua đời, giao hưởng đã trở thành đỉnh cao của âm nhạc cổ điển. Cánh cửa đã mở cho Beethoven và nhiều nhà soạn nhạc vĩ đại khác đã trở thành quyền lực bằng việc sáng tác giao hưởng và biến nó thành hình thức nghệ thuật mà chúng ta thừa nhận như ngày nay.

Đề xuất nghe dẫn chứng:

Sammartini - Symphony 32 in F Major

Stamitz - Symphony in E-flat Major op. 11 no. 3

Haydn (Early) - Symphony 8 (Le Soir)

Haydn (Middle) - Symphony 45 (Farewell)

Haydn (Late) - Symphony 92 (Oxford) 
 Trịnh Minh Cường dịch từ nguồn spinditty.com 

Nhận xét

  1. Hay quá. Hôm nay em mới có chút thời gian ngồi đọc. Đọc bằng tiếng Việt có niềm vui rất khác so với đọc bằng tiếng Anh.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...