Janne Sibelius sinh ngày 8 tháng 12 năm 1865 ở Hämeenlinna, Phần Lan. Janne là con thứ hai trong một gia đình có ba người con. Cha qua đời khi 'Janne' mới hai tuổi. Mặc dù ngôn ngữ ở nhà là tiếng Thụy Điển, nhưng Janne đã theo học trường tiểu học nói tiếng Phần Lan tiên phong của Hämeenlinna. Trong nhà âm nhạc được khuyến khích. Và chẳng bao lâu Janne đã chơi ngẫu hứng và sáng tác những bản nhạc của riêng mình. Vattendroppar (Water Drops-Giọt nước) cho violin và cello (khoảng năm 1875) được cho là một trong những sáng tác đầu tiên của nhà soạn nhạc. https://open.spotify.com/track/63gLMthyjzq9zg0XaXiowf?si=31e404fbcc194261
Năm 1885, Janne học xong trung học và chuyển đến Helsinki
trên danh nghĩa để học luật nhưng anh lại đăng ký vào Học viện Âm nhạc. Không
lâu sau, anh lặng lẽ bỏ học luật và bắt đầu học sáng tác với Martin Wegelius.
Âm nhạc của anh trong những năm này thể hiện sự phong phú về giai điệu dường
như vô tận cũng như cảm giác ngày càng chắc chắn và độc đáo về hình thức. Trong
những năm sinh viên ở Helsinki, Janne, đang sử dụng 'nghệ danh' Jean, đã gặp và
yêu Aino Järnefelt. Anh đã liệt kê nhiều ngôi sao tương lai của văn hóa Phần
Lan trong số những người bạn của mình, trong số đó có các tác giả Adolf Paul và
Juhani Aho. Anh cũng kết bạn với nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng Robert Kajanus
và nghệ sĩ piano kiêm nhà soạn nhạc Ferruccio Busoni. Năm 1889, Sibelius rời Phần
Lan để học ở nước ngoài - đầu tiên là Berlin và sau đó là Vienna. Ở cả hai thành
phố, anh đều sống vượt xa khả năng của mình và hăng hái nuôi dưỡng sở thích rượu
vang và xì gà hảo hạng. Đó là thời điểm anh nhận thức đầy đủ về tiềm năng của sử
thi Phần Lan Kalevala như một nguồn cảm hứng âm nhạc. Anh đã miệt mài thực hiện
một tác phẩm đồ sộ gồm 5 chương Kullervo dành cho các nghệ sĩ lĩnh xướng, dàn hợp
xướng nam và dàn nhạc với lời văn Kalevala. Trở lại Phần Lan, Sibelius đã chỉ
huy Kullervo và được hoan nghênh nhiệt liệt vào tháng 4 năm 1892. Tác phẩm đánh
dấu bước đột phá của anh và tạo thuận lợi cho cuộc hôn nhân với Aino vào tháng
6 năm đó. https://open.spotify.com/album/6ZijsqECBdxDpojcRBAfRI?si=2GJ8IorXTwiMmU8pyHEAtQ
Những năm 1890 là thời điểm gia tăng những bất mãn chính trị
ở Phần Lan. Mặc dù trên danh nghĩa Phần Lan là một đại công quốc tự trị của đế
chế Nga, nhưng quyền tự quyết của đất nước này đang bị mất dần bởi hàng loạt sắc
lệnh và tuyên ngôn của Nga. Phản ứng đối với các biện pháp như vậy là những phản
kháng, đặc biệt trong giới văn hóa. Sibelius đã cho ra một loạt tác phẩm đã khẳng
định vị trí của ông trên tư cách một chiến sĩ âm nhạc hàng đầu cho chính nghĩa
dân tộc Phần Lan. Ông cũng là khách hàng thường xuyên tại các quán nước thời
thượng nhất Helsinki, nơi ông và các đồng nghiệp đã nhiều đêm cùng uống rượu và
triết lý.
Các tác phẩm như En saga, Karelia, Skogsrået (The
Wood-Nymph), các giao hưởng thơ Lemminkäinen (gồm cả The Swan of Tuonela) và The
Press Celebrations Music (gồm cả Finlandia) đều có từ thời kỳ này, tuy nhiều
tác phẩm sau đó ông đã sửa đổi đáng kể. Sibelius say mê opera và Wagner - và thậm
chí đã đến thăm Bayreuth vào năm 1894 - nhưng cuối cùng ông nhận thấy âm nhạc của
Wagner đã gây khó chịu ngang với hấp dẫn ông.
Vở opera hoàn chỉnh duy nhất của Sibelius là tác phẩm một
màn Jungfrun i Tornet (The Maiden in the Tower-Trinh nữ trong tháp) viết năm
1896. Năm đó, nỗ lực kiếm một vị trí giảng dạy tại Đại học Helsinki đã thất bại.
Năm 1897, Sibelius đã được trao một trợ cấp nhỏ của nhà nước. Nhưng điều này
không giúp giải thoát ông khỏi những lo lắng về tài chính: ông đã tiêu tiền một
cách thoải mái đến mức sẽ mắc nợ trong vài thập kỷ tới. Ngay trước khi chuyển
giao giữa hai thế kỷ, Sibelius đã ghi dấu ấn của mình ở hai thể loại khác. Tác
phẩm sân khấu lớn đầu tiên của ông là phần âm nhạc cho vở kịch lịch sử Kung
Kristian II (King Christian II 1898) của Adolf Paul. Thể loại thứ hai là giao
hưởng: Giao hưởng thứ Nhất của ông, tác phẩm then chốt trong sự nghiệp của
Sibelius, được công diễn lần đầu tại Helsinki năm 1899. Với Giao hưởng thứ Hai
và Violin concerto, Sibelius đã từ bỏ phong cách lãng mạn dân tộc hoành tráng.
Cái chết vì bệnh sốt phát ban của cô con gái Kirsti của ông vào năm 1900 là một
đòn nặng nề. Và năm sau, khi đang viết Giao hưởng thứ Hai ở Ý, ông suýt mất một
con gái khác vì bệnh đó. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Sibelius,
Valse triste (Valse buồn, 1903), đã ra đời như một bản nhạc nền cho vở kịch
phong cách tượng trưng Kuolema (Cái chết).
Nhà soạn nhạc đã quyết định rời Helsinki để đến Järvenpää. Tại
đây, tháng 9 năm 1904, Sibelius và gia đình chuyển đến một biệt thự được xây
riêng cho họ và mang tên Ainola theo tên vợ của nhà soạn nhạc. Sau đó, ông đã
có một người bạn tâm giao mới - Axel Carpelan - người có những lời khuyên và sự
hỗ trợ sẽ giúp Sibelius vững vàng vượt qua nhiều thử thách.
Sau khi chuyển đến Ainola, âm nhạc của Sibelius có âm điệu cổ
điển, súc tích hơn thể hiện rõ trong Giao hưởng thứ Ba (1907). Ông không còn bị
thu hút nhiều bởi âm nhạc tôn giáo thông thường mà thích thể hiện niềm tin thuyết
phiếm thần sâu sắc của mình trong các tác phẩm như các bài hát Höstkväll (Tối
mùa thu, 1903) và På verandan vid havet (Trên ban công bên bờ biển, 1903).
Vài năm sau, ông bị một khối u ở cổ họng. Dù đã được cắt bỏ
vào năm 1908, Sibelius vẫn phải kiêng xì gà và rượu trong vài năm. Người ta thường
nói rằng tâm trạng u tối chiếm ưu thế trong các tác phẩm lớn của Sibelius trong
những năm sau đó. Trong số đó có Giao hưởng thứ Tư (1911), các giao hưởng thơ
The Bard và Luonnotar (cả hai đều năm 1913), tứ tấu đàn dây Voces intimae
(1909) và Ba sonatina cho piano (1912) – là những sản phẩm phụ của nỗi sợ hãi về
sự tái phát bệnh ung thư của ông. Dù sao đi nữa, sự ảm đạm của Giao hưởng thứ Tư
đã gây sốc cho những người cùng thời với ông.
Năm 1914, Sibelius đã có một chuyến đi Hoa Kỳ thành công với
buổi ra mắt giao hưởng thơ The Oceanides do ông chỉ huy. Sibelius rất muốn đến
thăm Hoa Kỳ một lần nữa nhưng Thế chiến thứ nhất đã ngăn lại. Vì phần lớn âm nhạc
của ông được xuất bản bởi các công ty Đức nên thu nhập của ông giảm dần và
trong vài năm sau đó ông không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ngồi nhà. Các
nhà xuất bản địa phương phát sinh nhu cầu ổn định đối với các tác phẩm khí nhạc
ngắn và ca khúc nghệ thuật, Sibelius đã
không làm mọi người thất vọng. Ông dùng lại xì gà và rượu như những chất kích
thích. Đầu tiên ở mức độ vừa phải nhưng sau đó ngày càng trỏe thành không thể
thiếu. Tác phẩm chính trong những năm này là Giao hưởng thứ Năm với bốn chương
tại buổi hòa nhạc sinh nhật lần thứ 50 của ông vào năm 1915, nhưng ngày sau đó
đã bị bị thu hồi để chỉnh sửa. Ở tuổi năm mươi, Sibelius đã là một nhân vật văn
hóa mang tính biểu tượng ở Phần Lan và cũng là một nhà soạn nhạc được quốc tế
kính trọng. Tuy nhiên, gia đình Sibelius đã phải lánh nạn ở Helsinki vì nội chiến
nổ ra sau khi Phần Lan tuyên bố độc lập vào năm 1917. Trong khi đó, Giao hưởng
thứ Năm vẫn đang trải qua những cơn đau đẻ kéo dài. Một phiên bản sửa đổi năm 1916
cũng đã bị rút lại. Phải đến phiên bản năm 1919 mới làm ông hài lòng.
Hai giao hưởng thứ sáu và thứ bảy lại đưa ra những hướng mới.
Bản thứ Sáu (1923) có màu sắc vừa phải, chủ yếu là nhẹ nhàng và thơ mộng, trong
khi bản thứ bảy (1924), ban đầu được đặt tên là Fantasia sinfonica, là một dinh
thự một chương cao quý gói gọn và tôn vinh thành tựu giao hưởng của Sibelius. Sau
Giao hưởng thứ Bảy, Sibelius đã sáng tác thêm hai tác phẩm lớn nữa: nhạc nền cho
vở kịch Bão tố(The Tempest 1925) của Shakespeare và giao hưởng thơ Tapiola
(1926) trước khi bắt đầu một cuộc chiến hoành tráng với Giao hưởng thứ Tám của
mình. Kỳ vọng đang tăng cao nhưng sự tự phê của tuổi già cũng khắt khe theo và
cuối cùng Sibelius đã thừa nhận thất bại. Vào giữa những năm 1940, ông đã đốt một
số bản thảo và theo như chúng tôi biết, Giao hưởng thứ Tám nằm trong số đó.
Thuật ngữ 'sự im lặng từ Järvenpää' đã được đặt ra để mô tả
những năm cuối đời của nhà soạn nhạc tại Ainola. Sự thực ông vẫn tiếp tục thực hiện các hiệu chỉnh và thỉnh
thoảng chuyển soạn cũng như tiếp chuyện vô số nhạc sĩ, chức sắc và người thân đến
thăm. Jean Sibelius qua đời thanh thản tại nhà riêng vào ngày 20 tháng 9 năm
1957.
Con người Sibelius thể
hiện vô số mâu thuẫn. Một mặt ông là một người cô độc yêu thiên nhiên và theo
thuyết phiếm thần với niềm đam mê đặc biệt với những loài chim di cư lớn như
thiên nga, sếu và có nhu cầu sâu sắc về sự cô lập của vùng nông thôn Phần Lan.
Mặt khác, ông lại là một người thích giao du, hòa nhập dễ dàng trong xã hội thượng
lưu và hoàn toàn thích trở thành tâm điểm chú ý ở các thành phố lớn trên khắp
châu Âu và một lần ở Mỹ. Mối quan hệ của ông với người vợ Aino và những cộng sự
nghệ thuật thân thiết như Robert Kajanus có thể gặp sóng gió, nhưng đều được
hình thành dựa trên sự tôn trọng sâu sắc và lâu bền đã cho phép họ duy trì qua
những cuộc khủng hoảng khác nhau.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 1948, Sibelius đưa ra lời
khuyên cho các nhà soạn nhạc trẻ: “Đừng bao giờ viết thừa; mọi nốt nhạc đều phải
sống’. Âm nhạc của ông đưa ra bằng chứng thuyết phục về cách bản thân ông đã áp
dụng nguyên tắc này trong suốt sự nghiệp lâu dài và nổi bật của mình.
Andrew Barnett 2006/2014
https://sibeliusone.com/jean-sibelius/jean-sibelius-a-short-biography/
25/4/2023
Trịnh Minh Cường dịch
Nhân đang nghe toàn bộ sáng tác của ông:
https://open.spotify.com/playlist/20v6X5WRWx7oIGeg2MxFDK?si=18960f0c8791413d
Nhận xét
Đăng nhận xét