Chuyển đến nội dung chính

MANUEL DE FALLA

 Tên khai sinh đầy đủ của bậc thầy người Tây Ban Nha này là Manuel María de los Dolores Falla y Matheu. Ông sinh ra ở Cadiz vào ngày 23 tháng 11 năm 1876 là con của José María Falla y Franco và María Jesús Matheu y Zabal. Người mẹ cùng ông nội là một trong những giáo viên dạy nhạc đầu tiên của Manuel. Năm 9 tuổi, Manuel bắt đầu học piano với Eloísa Galluzo, nhưng việc học kết thúc đột ngột khi cô giáo đi tu ở tu viện  Chị em thiện nguyện. Vài năm sau, năm 1889, Manuel tiếp tục học piano với Alejandro Odero, đồng thời học hòa âm và đối âm với Enrique Broca. Ở tuổi 15, Manuel bắt đầu quan tâm đến văn học và báo chí và thành lập hai tạp chí El Burlón(chim nhại) và El Cascabel(chuông leng keng). Tuy nhiên, hai năm sau, sau khi dự khán buổi hòa nhạc gồm các tác phẩm của nhà soạn nhạc người Na Uy Edvard Grieg, Manuel cảm thấy tràn đầy cảm hứng và về sau nhớ lại vào thời điểm đó ông cảm thấy rằng “nghề nghiệp của tôi dứt khoát là âm nhạc”.

Năm tròn 20 tuổi, Falla chuyển đến thủ đô Madrid và học tại Nhạc viện Real Conservatorio de Música y Declamación. Ở đây, Falla học piano với José Tragó (đồng nghiệp của Isaac Albéniz), và học sáng tác với danh sư Felipe Pedrell. Falla rất thích nhạc thính phòng do Salvador Viniegra tổ chức và đề tặng ông bản Melodia viết cho cello và piano (1897). Đó là thời điểm ông bắt đầu đặt “de”trước họ của mình để thành nghệ danh De Falla. Khoảng năm 1900, ông ra mắt sáng tác cho piano Serenata andaluza y Vals-Capricho tại Ateneo de Madrid ("Athenæum of Madrid" - một tổ chức văn hóa tư nhân). Tình hình tài chính bấp bênh của gia đình khi đó buộc Falla phải bắt đầu nhận dạy piano.

Học Felipe Pedrell

Pedrell có ảnh hưởng sâu sắc đối với chàng trai trẻ Falla  như với nhiều học trò khác của mình. Danh sư sáng tác chủ trương tìm nguồn cảm hứng từ âm nhạc dân gian: Falla bắt đầu quan tâm đến âm nhạc bản địa Andalusia và sử dụng nhiều yếu tố của nó như cante jondo của flamenco trong các sáng tác của mình. Sau đó, ông bắt đầu viết một vở opera kiểu Tây Ban Nha gọi là "Zarzuela" - Los amores de la Inés – và  được công diễn lần đầu vào ngày 12 tháng 4 năm 1902 tại nhà hát Teatro Cómico de Madrid. Zarzuela là một thể loại kịch trữ tình Tây Ban Nha xen kẽ giữa các cảnh thoại và hát, cảnh hát có kết hợp các bài ca opera và pop cùng nhảy múa. Năm sau Falla sáng tác và biểu diễn tác phẩm Allegro de concierto của mình, như một tác phẩm dự thi Nhạc viện Hoàng gia Madrid,  giải nhất đã được trao cho người đồng hương Tây Ban Nha Enrique Granados với tác phẩm cùng tên.

Tác phẩm lớn đầu tiên của Falla là vở opera một màn La vida breve (Cuộc đời ngắn ngủi). Vở opera được viết vào năm 1905 với sự hợp tác của nhà biên kịch libretto Carlos Fernández Shaw, và với vở này ông đã giành được giải nhất trong một cuộc thi do Học viện Mỹ thuật Hoàng gia San Fernando tổ chức. Tuy nhiên, không ai ở Tây Ban Nha quan tâm đến việc dàn dựng vở opera này. Vì vậy nhà soạn nhạc đã tìm kiếm những cơ hội khả dĩ hơn ở nước láng giềng Pháp và năm 1913, vở opera của ông cuối cùng đã được công diễn lần đầu tại Casino Municipal ở Nice.

Năm 1907 de Falla đã chuyển đến Paris theo lời khuyên của các đồng nghiệp Joaquín Turina và Víctor Mirecki Larramat. Ở đây ông gặp nhiều nhà soạn nhạc có ảnh hưởng như những đồng nghiệp theo trường phái Ấn tượng Maurice Ravel, Claude Debussy và Paul Dukas. Năm 1908, vua Alfonso XIII cho phép ông ở lại Paris bằng cách trao cho ông một khoản trợ cấp hoàng gia và nhờ đó ông đã ở lại thủ đô nước Pháp đồng thời hoàn thành tập Cuatro piezas españolas(Bốn tiểu phẩm Tây Ban Nha) của mình.

Năm 1914 da Falla trở về quê hương sau khi Thế chiến thứ Nhất bùng nổ, ở quê nhà ông nhận thấy danh tiếng của mình đang tăng lên nhanh chóng. La vida breve được dàn dựng tại nhà hát Teatro de la Zarzuela ở Madrid vào ngày 14 tháng 11 năm đó, và Siete canciones Populares Españolas (Bảy ca khúc dân gian Tây Ban Nha) được ra mắt sau đó vài tuần. Khi sống ở  Madrid, de Falla đã sáng tác một số tác phẩm nổi tiếng nhất của mình:

Nocturne dành cho piano dàn nhạc Nights in the Gardens of Spain(1916).

El amor brujo (Mối tình bị bỏ bùa, 1915) – một vở ballet trong đó có trích đoạn nổi tiếng nhất của ông Danza Ritual Del Fuego (Vũ khúc tế lửa).

Vở ballet El sombrero de tres picos (Mũ ba góc, 1917) – dàn cảnh và phục trang bởi họa sĩ điêu hắc gia vĩ đại Pablo Picasso

Sống ở Granada

Trong thời gian từ  1921-1939 de Falla sống tại Granada, Tây Ban Nha. Tại đây, cùng với nhà thơ Federico García Lorca, ông đã tổ chức Concurso de Cante Jondo (1922) trong nỗ lực bảo tồn nghệ thuật cổ xưa của ca khúc và flamenco Andalusia. Hai tác phẩm quan trọng được sáng tác trong thành phố này gồm có vở opera múa rối El retablo de maese Pedro (Vở múa rối của Master Peter – phỏng theo nhiều đoạn khác nhau từ kiệt tác Don Quixote của Cervantes, 1923); và một bản concerto dành cho đàn harpsichord, concerto đầu tiên trong thế kỷ 20 viết cho nhạc cụ này. Cả hai tác phẩm đều được viết với ý tưởng của nghệ sĩ harpsichord nổi tiếng Wanda Landowska, và Falla đã thoát khỏi những ảnh hưởng dân gian Tây Ban Nha điển hình của mình đối với những tác phẩm này và thích khám phá các yếu tố của chủ nghĩa tân cổ điển kiểu Stravinsky.

Manuel de Falla cũng bắt đầu làm việc trên một cantata cho dàn nhạc quy mô lớn khi sống ở Granada. Atlántida (Atlantis) là một canata dựa trên trường ca L'Atlàntida của Jacint Verdaguer: Một câu chuyện thần thoại trong đó sự nhấn chìm của Atlantis đã tạo ra Đại Tây Dương, do đó tách Tây Ban Nha khỏi Mỹ Latinh; Sau đó, câu chuyện tiếp tục khẳng định rằng việc khám phá ra nước Mỹ sau này là sự thống nhất của cả hai vốn luôn thuộc về nhau. Nhà soạn nhạc coi đây là tác phẩm âm nhạc quan trọng nhất của mình, tuy nhiên hậu thế vẫn chưa đồng ý với quan điểm của ông và Atlántida rất hiếm được trình diễn.

Như đã đề cập ở trên, Falla đã hợp tác với nhà thơ Federico García Lorca. Tháng 7 năm 1936, cuộc nội chiến Tây Ban Nha nổ ra và Lorca trở thành mục tiêu vì quan điểm tự do của mình. Mặc dù Falla đã cố gắng cứu bạn nhưng Lorca vẫn bị lực lượng Quốc dân xử tử vào tháng 8. Sau chiến thắng của Francisco Franco trong nội chiến, năm 1939 Falla rời Tây Ban Nha đến Argentina và sống lưu vong ở đó trong phần đời còn lại.

Tại Argentina, Falla tiếp tục sáng tác Atlántida. Nhưng tác phẩm vẫn chưa hoàn thành đến khi ông qua đời. Phần phối dàn nhạc được Ernesto Halffter hoàn thành nốt. Ông cũng ra mắt tác phẩm Suite Homenajes ở Buenos Aires vào tháng 11 năm 1939. Trong khi trở lại quê hương năm 1940, Falla được phong là Hiệp sĩ của Vua Alfonso X xứ Castile; Chính phủ Franco cố gắng dụ Falla trở lại Tây Ban Nha với một đề nghị khoản lương hưu lớn, nhưng nhà soạn nhạc kiên quyết từ chối quay về.

Nhà soạn nhạc lưu vong dành thời gian giảng dạy ở Argentina. Trong số những học trò đáng chú ý của ông có người phụ nữ đồng hương Rosa García Ascot. Sức khỏe của ông bắt đầu suy giảm và ông về sống tại một biệt thự trên núi cùng chị gái María del Carmen là người chăm sóc ông. Ngày 14 tháng 11 năm 1946, Manuel de Falla qua đời vì ngưng tim ở Alta Gracia. Một năm sau, hài cốt của ông được đưa về quê hương và  được chôn cất trong nhà thờ Cádiz. Một trong những vinh danh lâu dài để tưởng nhớ Falla là vị trí Chủ tịch Âm nhạc Manuel de Falla tại Khoa Triết học và Văn học, Đại học Complutense ở thủ đô Madrid. Trong một thời gian, hình ảnh của ông xuất hiện trên tờ tiền "100 peseta" của Tây Ban Nha. Ông không lập gia đình. (http://www.maestros-of-the-guitar.com/manueldefalla.html )

Ông đã để lại di sản quan trọng nhất là các sáng tác âm nhạc của mình gồm:

Nhạc sân khấu có 7 tác phẩm,  nổi tiếng nhất trong đó là:

Opera Cuộc đời Ngắn ngủi: https://open.spotify.com/album/3FJ7BXlPd8KMhOtb4OHsIS?si=GOMcmlztQwa73hsf-xtFlw

Ballet Mối tình bị Bỏ bùa và Mũ Ba góc:

https://open.spotify.com/album/7JZxWyLh2ukyA3v1ULjuuc?si=jqVjM1SWRLqPnaBdNNmkyQ

 

Dàn nhạc:

- Noches en los jardines de España ("Nights in the Gardens of Spain") cho piano và dàn nhạc:

- Homenajes ("Homages")  

https://open.spotify.com/album/6eynkFNmSs2xOPY4IV79DM?si=CkgtuKXzSSCH-acLAWBW1w

 

Thanh nhạc:

Hợp xướng: Balada de Mallorca ("Ballad of Majorca")

https://open.spotify.com/track/7yLYCBWQ6rkKSsvc3ASNVe?si=1f15adac22994232

Ca khúc nghệ thuật:

 Preludios ("Preludes") – hát và piano, lời ("Madre todas las noches") của Antonio de Trueba

Rima ("Rime") – hát và piano, lời ("Olas gigantes") của Gustavo Adolfo Bécquer

Dios mío, qué solos se quedan los muertos – hát và piano, lời của Gustavo Adolfo Bécquer

Tus ojillos negros ("Your small black eyes") – hát và piano, lời của Cristóbal de Castro

Cantares de Nochebuena "Songs of Christmas Eve" – Chín ca khúc dân gian cho hát và guitar

Ba mélodie – hát và piano, lời của Théophile Gautier (1909–1910)

Bảy bài dân ca Tây Ban Nha("Seven Spanish Folksongs") – hát và piano, đề tặng bà Ida Godebska.

Oración de las madres que tienen sus hijos en sus brazos (Lời cầu nguyện của những người mẹ ôm con mình) – hát và piano, lời của Gregorio Martínez Sierra

El pan de Ronda que sabe a verdad (Bánh mì của Ronda có hương vị của sự thật) – hát và piano, lời của  G. Martínez Sierra

Psyché – cho mezzo-soprano, flute, harp, violin, viola và cello.

Soneto a Córdoba ("Thờ Sonnet cho Cordoba") – cho soprano và harp (hoặc piano), lời của Luis de Góngora.

Hòa tấu thính phòng:

Melodía para violonchelo y piano –  piano và cello

Pieza en Do mayor and Romanza – cello và piano

Fanfare pour une fête ("Fanfare cho ngày hội") – 2 trumpet, timpani và trống ếch.

Concerto cho harpsichord, flute, oboe, clarinet, violin và cello – đề tặng Wanda Landowska

Fanfare sobre el nombre de Arbós ("Fanfare trên tên của Arbós") – cho dàn kèn trumpet, horn và trống; phối khí như một phần của  Homenajes

Độc tấu khí nhạc:

Piano

Vol1: https://open.spotify.com/album/0zJ9UJUmxwRNVAbNLpNI3V?si=7VpiBQaETaikawAJdIJ7Eg 

Vol2: https://open.spotify.com/album/726BMMTtSEstVVYOi1LrqD?si=Y2DLmlsCRq27dFSTluoVKA

 

Nocturne, Mazurka in C minor, Serenata andaluza ("Andalusian Serenade")

Canción ("Song"), Vals capricho, Cortejo de gnomos ("Procession of Gnomes")

Allegro de concierto, Cuatro piezas españolas(4 tiểu phẩm Tây Ban Nha) – đề tặng Isaac Albéniz

Fantasía Bética – đề tặng Arthur Rubinstein

Canto de los remeros del Volga (Bài ca người chaefo thuyền trên sông Volga)

Pour le tombeau de Paul Dukas (1935) – piano (1935); Phối khí như một bè trong Homenajes

Guitar

Pour le tombeau de Claude Debussy – cho guitar; phối khí như một bè của Homenajes

https://open.spotify.com/track/49rIle26DOszMIl3rFs8DT?si=6f560049ec444ddc  

 

13/11/2023

Trịnh Minh Cường

Nhân đang nghe toàn bộ sáng tác của ông 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...