Chuyển đến nội dung chính

FRANZ SCHUBERT - MỘT KỲ NHÂN ÂM NHẠC

 Dù chưa biết Schubert là ai, không ít người đã say đắm giai điệu Khúc nhạc chiều hay Serenade hoặc Ave Maria. Cũng như nhiều người cùng thế hệ, tôi biết Ave Maria từ album của thần đồng ca hát Robertino, đó là đĩa nhựa Melodia của chú tôi mang từ Liên Xô về. Còn Khúc nhạc chiều tôi được nghe từ album Melodia khác có bìa trắng với nhưng bản nhạc đã nghe thì không muốn rời: Phiên chợ Ba Tư, Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ, Scardas và Khúc nhạc chiều. Khi đó mới biết duy nhất tên bản Phiên chợ Ba Tư thôi, các bản còn lại mãi về sau mới biết dần tên và tác giả. Lên lớp 6 thầy dạy nhạc giảng là nhạc vàng bắt nguồn từ Khúc nhạc chiều của Schubert. Lớp 6 mới có môn nhạc nhưng thầy giáo không dạy gì cụ thể mà thầy chỉ nói chuyện về âm nhạc thôi.

Vào đại học tôi đã may mắn được theo học anh Nguyễn Như Dũng, một người thầy không chỉ dạy tôi chơi guitar cổ điển theo cách khác hẳn trước đó, mà quan trọng hơn nhiều anh còn “lây nhiễm” cho tôi niềm đam mê nhạc cổ điển. Anh lập một nhóm gồm những người bạn yêu nhạc cổ điển và guitar cổ điển. Nhóm thường tập trung tại căn hộ trong khu tập thể Thanh Xuân Bắc của anh để học chơi guitar và thưởng thức nhạc cổ điển. Phần lớn thành viên đều lớn tuổi hơn tôi và đều du học ở Liên Xô về. Các anh đều hiểu biết âm nhạc hơn tôi vì đã có số giờ nghe nhạc nhiều hơn tôi rất nhiều. Chúng tôi nghe nhạc bằng máy quay đĩa mono của Liên Xô dạng xách tay: như chiếc va li nhỏ với nắp là loa. Có một giai đoạn, một trong những bản yêu thích nhất của nhóm là cello sonata của Schubert, đó cũng là cello sonata đầu tiên tôi biết. Các anh bình luận là bà cellist kéo chưa “đã” lắm, tôi nghe biết vậy chứ nào có biết để “đã” phải kéo thế nào. Khái niệm về Schubert của tôi bắt đầu được hình thành từ đó. Sau đó không lâu tôi được xem bộ phim  “Bản Giao hưởng dang dở” và biết thêm tên tuổi Schubert gắn với bản giao hưởng quá nổi tiếng này. Trong phim chỉ trích đoạn một số giai điệu thôi. Nhưng chỉ đoạn giới thiệu ở bè trầm của kiệt tác này đã làm cho tôi sởn hết gai ốc. Phải rất lâu về sau tôi mới được thưởng thức toàn bộ kiệt tác này. Giờ điểm nhanh những bản giao hưởng mình yêu thích, tôi chưa thấy bản nào có đoạn giới thiệu ngắn gọn mà tác động mạnh  như thế. Người Việt gọi kiệt tác này bằng mấy tên khác nhau: Bản Giao hưởng “Dang dở, Bản Giao hưởng “Bỏ dở” và Bản Giao hưởng “Chưa hoàn thành”. Nếu phải dùng biệt danh thì tôi thích phương án cuối hơn và rất không thích phương án “Bỏ dở” vì nghe có vẻ tác giả lười hoặc hắt hủi nó không chịu viết tiếp 😊. Nói chung với các tác phẩm âm nhạc tôi vốn không thích dùng  biệt danh bằng tên xuất bản. Như kiệt tác này tôi chỉ thích gọi đúng tên của nó là Giao hưởng số 8 Xi thứ D.759. Các bản  giao hưởng trước và sau thời đại của Schubert phải có 4 chương theo trình tự  nhanh – chậm - nhanh – nhanh thì người ta kết luận rằng bản giao hưởng này  chưa được viết xong vì mới có 2 chương đầu nhanh và chậm. Biết đâu chính Schubert muốn chơi khăm các nhà phê bình và thính giả thì sao? Tôi tưởng tượng cảnh nhà soạn nhạc 25 tuổi viết xong chương 2 một cách nhanh chóng vì dòng nhạc cứ thể tuôn ra và anh chỉ cần viết thôi. Ném cây bút xuống bàn anh đứng dậy đi lại trong phòng một cách khoan khoái. Anh chợt nghĩ: Sẽ ra sao nếu trình diễn đến đây nhạc trưởng quay lại chào khán giả như mỗi khi kết thúc một bản giao hưởng? Kể cả khi giới thiệu trước sẽ có một bản giao hưởng hai chương chắc sẽ vô khối người đặt chỗ luôn vì tò mò. Đợi cho thiên hạ thật muốn nghe tiếp nó thì ta sẽ viết tiếp. Một ý tưởng xuất sắc đấy chứ, mình phục mình ghê! Cùng khoảng thời gian tôi được tiếp cận cello sonata tôi cũng được thưởng thức trọn vẹn giao hưởng “chưa hoàn thành” trên Tv của Liên xô do nhạc trưởng nổi tiếng Mravinsky cùng dàn giao hưởng Leningrad. Đó là khi nhà tôi có tv màu  và đài THTW chưa phát được màu nên chuyển tiếp sóng của TH Liên xô, nhờ đó mà tôi được xem thường xuyên các buổi hòa nhạc tại nhạc viện Tchaikovsky, đó thực sự là những bữa tiệc âm nhạc trong thời kỳ nguồn nhạc còn rất kham khổ. Về Schubert ở Thanh xuân Bắc, sau cello sonata là Con đường mùa đông, liên ca khúc thần thánh đến nay vẫn là mọt trong những album tôi mê nhất. Anh Dũng nói đây là câu chuyện của một người bỏ nhà đi giữa đêm đông băng giá, tác phẩm là tuyên ngôn  của kỷ nguyên Lãng mạn với sự đề cao cá nhân. Album này là đĩa mono do ca sĩ Peter Anders hát. Mỗi tuần tôi chỉ mong cuối tuần để được trả bài guitar rồi thưởng thức nhưng ca khúc tuyệt diệu này. Cơ hội để được nghe tại nhà đã đến khi bố tôi đi chuyên gia ở châu Phi về mua được dàn máy Sharp có cả quay đĩa và cassette, Thế là tôi mượn Con đường mùa Đông thần thánh cùng một album của Gan(Kogan) về sao sang cassette. Một số fan của Kogan thường gọi yêu ông là Gan. Album của Gan gồm các vũ khúc nổi tiếng rất dễ nghe, chỉ có điều đĩa xước nhiều quá nên khi sao xong thì hạt kim bị văng mất. Bố tôi đã nhờ nhiều người đi công tác châu Âu tìm giúp nhưng không tìm được đồ thay. Dù phần chơi đĩa vinyl chủ yếu phục vụ tôi nhưng tôi vẫn áy náy mãi về vụ này. Mỗi khi có khách, bố tôi thường cho dàn trình diễn khả năng tự chơi cả hai mặt đĩa mà không cần lật đĩa bằng tay. Tức là đầu tết của nó chuyển động trên một cặp dây đến mép đĩa thì chui xuống gầm và chơi mặt dưới. Nhưng đầu tết ở thế tỳ lên không đủ  lực nên âm thanh bị kém hẳn. Dẫu sao tôi vẫn áy náy vì làm mất một niềm vui nhỏ của bố. Một hôm một thằng bạn đại học đến chơi đúng lúc tôi đang nghe Con đường Mùa đông. Nó vào nhà rồi vẻ mặt đầy ngạc nhiên khi nghe thấy nhạc. Sau một lúc nó hỏi với vẻ mặt nghiêm trang như đang chào cờ: Tao hỏi thật mày nhé, mày thích thứ nhạc này thật à? Tôi gật đầu và bò ra cười vì cái vẻ mặt kinh ngạc của nó.

Đời sống âm nhạc ngày càng đi lên nên tôi cũng được thưởng thức nhiều sáng tác của Schubert theo thời gian. Đến thời nhạc trực tuyến như Spotify tôi còn được thưởng toàn bộ sáng tác của anh. Không những thế tôi còn được biết về cuộc đời anh.

Franz Peter Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Vienna, Áo,  là con thứ tư của Franz Theodor Schubert, hiệu trưởng trường phổ thông và Elizabeth Vietz, một người giúp việc gia đình. Sớm thể hiện năng khiếu âm nhạc từ nhỏ, Franz được học violin với bố, anh trai Ignaz và nghệ sĩ  organ Michael Holzer. Khi 11 tuổi Franz được nhận vào dàn hợp xướng của Nhà nguyện  cung đình. Ngoài lúc hát trong dàn hợp xướng, cậu còn chơi violin trong dàn nhạc và trở nên quen thuộc với âm nhạc của các bậc thầy  J. Haydn, W. A. Mozart và L. van Beethoven.  Franz là một thanh niên nhút nhát. Cậu dành phần lớn thời gian rảnh rỗi để luyện tập và sáng tác. Năm mười lăm tuổi bị vỡ giọng cậu rời ca đoàn nhưng vẫn tiếp tục học ở chủng viện. Antonio Salieri, giám đốc âm nhạc của hoàng đế, đã nhận ra tài năng của Schubert và nhận cậu làm học trò.

Năm 1814, thiên tài của Schubert lần đầu tiên được thể hiện rõ ràng trong tác phẩm Gretchen am Spinnrade của anh. Tác phẩm lấy cảm hứng từ cuốn Faust của Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832). Bản mass đầu tiên và bản giao hưởng đầu tiên của anh xuất hiện vào khoảng thời gian này và cho thấy ảnh hưởng của Haydn. Schubert cũng phổ nhạc năm bài thơ khác của Goethe trong năm đó. Cuối năm 1814, Schubert làm trợ lý tại trường học của cha mình và bắt đầu làm quen với nhiều nhà thơ, luật sư, ca sĩ và diễn viên, những người sẽ sớm trở thành người biểu diễn chính các tác phẩm của anh tại các buổi hòa nhạc riêng tại nhà của họ hoặc tại nhà những người bạn giàu có hơn của họ. Các ca khúc của Schubert phổ thơ của các thi sĩ nổi tiếng như Von Herder,  F. G. Klopstock,  Friedrich von Schiller và đặc biệt là Goethe. Khi là giáo viên, Schubert đã sáng tác các giao hưởng từ số 2 đến số 5. Vào thời gian này, anh cũng viết các vũ khúc dễ thương, những bản valse và Ländler. Vì trong nhà không có đàn piano, năm 1817  Schubert chuyển đến sống tại nhà Franz von Schober, người bạn nhạc.  

Trong thời gian năm 1820 đến năm 1823, Schubert đã đạt được sự trưởng thành trong các sáng tác của mình. Hai trong số những vở operetta và một số ca khúc nghệ thuật của anh đã được công diễn, một số sáng tác của anh bắt đầu được xuất bản và biểu diễn trong các buổi hòa nhạc riêng. Vào tháng 9 năm 1821 Schubert và Schober rời Vienna về nông thôn với ý định viết Alfonso und Estrella, vở opera lớn duy nhất của mình. Ngay sau khi trở về thành phố, anh gặp Edward Bauernfeld, người đã giới thiệu cho anh những tác phẩm của William Shakespeare. Mùa thu năm 1822, sau khi hoàn thành Mass La giáng trưởng, Schubert bắt đầu thực hiện giao hưởng Si thứ. Ba chương đã được phác thảo và hai chương đã hoàn thành nhưng chỉ có vậy. Không ai biết lý do tác phẩm còn dang dở. Sức khỏe của Schubert bắt đầu suy yếu. Đến tháng 5, anh phải đi điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Vienna. Rosamunde, một vở kịch mà Schubert đã viết nhạc nền, đến nay chỉ có phần overture và phần nhạc ballet, đã thất bại vào năm 1823 và kết thúc những nỗ lực cho một vở opera thành công.

Trong khoảng năm 1826 và 1827, mặc dù bệnh tình tái phát, Schubert vẫn hoàn thành bốn kiệt tác, mỗi kiệt tác vẫn là một mặt hàng chủ lực trong nhạc mục của anh: String Quartet Sol trưởng, Piano Sonata Sol trưởng, Piano Trio Si giáng trưởng và Mi giáng trưởng. Tháng 3 năm 1827 Schubert là một trong những người cầm đuốc tại đám tang của Beethoven. Cuối năm đó Schubert đã hoàn thành hai tập tuyệt phẩm cho piano: Bốn Impromptu D. 899 và Bốn Impromptu D. 935. Năm 1828, Schubert hoàn thành một số tuyệt phẩm khác: Fantasy Fa thứ cho piano 4 tay, Giao hưởng Đô trưởng, Mass Mi giáng trưởng và 9 ca khúc phổ thơ của Ludwig Rellstab. Ngày 26 tháng 3 năm 1828, Schubert tham gia buổi hòa nhạc công cộng quy mô lớn duy nhất chỉ dành riêng cho các tác phẩm của riêng mình. Ngày 11 tháng 11, Schubert bắt đầu bị buồn nôn và đau đầu. Năm ngày sau, các bác sĩ chẩn đoán sốt thương hàn, một bệnh do vi khuẩn mà thời đó chưa có thuốc trị. Anh qua đời vào ngày 19 tháng 11 năm 1828 và để lại hơn 1500 sáng tác cùng câu hỏi: Anh sáng tác cách nào để ra được ngần đó sáng tác chỉ trong khoảng 15 năm? Chừng đó thời gian chắc chỉ đủ cho một nhạc sĩ khác chép lại khối lượng bản nhạc đó.

Người ta kể rằng Schubert vớ đâu cũng ra nhạc. Anh có thể viết về bất cứ chuyện gì gặp trong đời thường. Ví dụ, anh bất chợt cầm cuốn sách nào đó và 'nghía' thấy một bài thơ, và rồi anh nhẩm thành lời một bài hát mới mà ngay sau khi phát hành, cả thành Vienna hát nó. Anh chia sẻ: “Khi tôi muốn hát về tình yêu thì nó lại thành nỗi đau khổ. Khi tôi muốn hát về nỗi buồn thì nó lại hóa thành tình yêu trong tôi.” Cũng như người đàn anh Beethoven mà Schubert vừa tham gia chôn cất năm trước, cả hai nhà soạn nhạc đều sáng tác ra những kiệt tác về tình yêu nhưng bản thân họ chưa từng được yêu, tạo hóa thật quá bất công! 

Trong số các sáng tác của anh có hơn 600 ca khúc nghệ thuật và những ca khúc này đã đưa anh thành ông Vua ca khúc nghệ thuật. Một đặc điểm nổi bật của các ca khúc của Schubert là bè piano. Gọi là bè đệm cho bè hát nhưng bè piano không khác mấy một bản độc tấu. Không giới thiệu rõ cứ chơi riêng bè piano thì người thiếu trải nghiệm sẽ tin rằng đó là một bản độc tấu piano. Có hai ví dụ rất rõ rệt là ca khúc Hát trên nước(Auf dem Wasser zu singen) D.774 hay Auf der Bruck D. 853.

Ngoài ca khúc nghệ thuật, hầu hết lĩnh vực còn lại Schubert đều có kiệt tác đỉnh cao, trừ opera. Trong số 17 vở opera của Schubert không vở nào còn sức sống đến ngày nay.

Trong lĩnh vực giao hưởng Schubert đóng góp 9 bản trong đó có hai kiệt tác nằm đỉnh cao của thể loại.

Giao hưởng số 8 dù chỉ có hai chương

Giao hưởng số 9 Đô trưởng “Lớn” D. 944.

Ngoài ra nhạc nền cho vở kịch Rosamunde cũng là kiệt tác:

Riêng trong lĩnh vực concerto, các nhà soạn nhạc khác cứ vô tư sáng tác mà không phải bận tâm cạnh tranh với Schubert vì anh không viết bản concerto nào. Lý do dễ chấp nhận cho khoảng trống này chỉ đơn giản là Schubert không thích  thể loại này.

 

Trong lĩnh vực hòa tấu thính phòng, Schubert có hai đỉnh cao vô song.

Ngũ tấu piano La trưởng D.667 “Cá hồi”:

Và Tứ tấu đàn dây số 14 Rê thứ D.810 “Thần chết và Trinh nữ” 

 

Các sáng tác cho piano là mảng quan trọng trong di sản của Schubert

Kiệt tác đầu tiên cho piano của Schubert tôi biết là Fantasie Fa thứ cho piano 4 tay do hai bố con danh cầm E Gilels chơi:

https://youtu.be/EMM8NxvoG3M?si=tpgYkBDcsulbr0rV         

Sau đó là Khoảnh khắc âm nhạc số 3 từ tập Sáu khoảnh khắc âm nhạc D.780, về sau tôi đã chuyển soạn thành công cho guitar: https://youtu.be/B3_h8-feHoU?si=8PWjdQeL1Maof_ei

Tiếp theo là hai tập gồm 8 Impromptu mà thực sự tôi không thể chọn ra bản hay nhất. Đó là tập Bốn Impromptu D. 899 và và Bốn Impromptu D. 935.

Với tôi, Franz Schubert là một kỳ nhân hiếm hoi của tạo hóa: về năng suất sáng tác anh là kỷ lục gia vô song, về thể loại anh đều đạt được đỉnh cao trong cả thanh nhạc và khí nhạc, còn về chất lượng sáng tác anh ngang tầm các bậc thầy vĩ đại Bach, Mozart, Beethoven ….. 

 19/11/2024

Nhân ngày giỗ kỳ nhân 

Trịnh Minh Cường

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...