Dù chưa biết Schubert là ai, không ít người đã say đắm giai điệu Khúc nhạc chiều hay Serenade hoặc Ave Maria. Cũng như nhiều người cùng thế hệ, tôi biết Ave Maria từ album của thần đồng ca hát Robertino, đó là đĩa nhựa Melodia của chú tôi mang từ Liên Xô về. Còn Khúc nhạc chiều tôi được nghe từ album Melodia khác có bìa trắng với nhưng bản nhạc đã nghe thì không muốn rời: Phiên chợ Ba Tư, Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ, Scardas và Khúc nhạc chiều. Khi đó mới biết duy nhất tên bản Phiên chợ Ba Tư thôi, các bản còn lại mãi về sau mới biết dần tên và tác giả. Lên lớp 6 thầy dạy nhạc giảng là nhạc vàng bắt nguồn từ Khúc nhạc chiều của Schubert. Lớp 6 mới có môn nhạc nhưng thầy giáo không dạy gì cụ thể mà thầy chỉ nói chuyện về âm nhạc thôi.
Vào đại học
tôi đã may mắn được theo học anh Nguyễn Như Dũng, một người thầy không chỉ dạy
tôi chơi guitar cổ điển theo cách khác hẳn trước đó, mà quan trọng hơn nhiều anh
còn “lây nhiễm” cho tôi niềm đam mê nhạc cổ điển. Anh lập một nhóm gồm những
người bạn yêu nhạc cổ điển và guitar cổ điển. Nhóm thường tập trung tại căn hộ
trong khu tập thể Thanh Xuân Bắc của anh để học chơi guitar và thưởng thức nhạc
cổ điển. Phần lớn thành viên đều lớn tuổi hơn tôi và đều du học ở Liên Xô về.
Các anh đều hiểu biết âm nhạc hơn tôi vì đã có số giờ nghe nhạc nhiều hơn tôi rất
nhiều. Chúng tôi nghe nhạc bằng máy quay đĩa mono của Liên Xô dạng xách tay:
như chiếc va li nhỏ với nắp là loa. Có một giai đoạn, một trong những bản yêu
thích nhất của nhóm là cello sonata của Schubert, đó cũng là cello sonata đầu
tiên tôi biết. Các anh bình luận là bà cellist kéo chưa “đã” lắm, tôi nghe biết
vậy chứ nào có biết để “đã” phải kéo thế nào. Khái niệm về Schubert của tôi bắt
đầu được hình thành từ đó. Sau đó không lâu tôi được xem bộ phim “Bản Giao hưởng dang dở” và biết thêm tên tuổi
Schubert gắn với bản giao hưởng quá nổi tiếng này. Trong phim chỉ trích đoạn một
số giai điệu thôi. Nhưng chỉ đoạn giới thiệu ở bè trầm của kiệt tác này đã làm
cho tôi sởn hết gai ốc. Phải rất lâu về sau tôi mới được thưởng thức toàn bộ kiệt
tác này. Giờ điểm nhanh những bản giao hưởng mình yêu thích, tôi chưa thấy bản
nào có đoạn giới thiệu ngắn gọn mà tác động mạnh như thế. Người Việt gọi kiệt tác này bằng mấy
tên khác nhau: Bản Giao hưởng “Dang dở, Bản Giao hưởng “Bỏ dở” và Bản Giao hưởng
“Chưa hoàn thành”. Nếu phải dùng biệt danh thì tôi thích phương án cuối hơn và
rất không thích phương án “Bỏ dở” vì nghe có vẻ tác giả lười hoặc hắt hủi nó
không chịu viết tiếp 😊. Nói chung với các tác phẩm âm nhạc tôi vốn không thích dùng biệt danh bằng tên xuất bản. Như kiệt tác này
tôi chỉ thích gọi đúng tên của nó là Giao hưởng số 8 Xi thứ D.759. Các bản giao hưởng trước và sau thời đại của Schubert
phải có 4 chương theo trình tự nhanh –
chậm - nhanh – nhanh thì người ta kết luận rằng bản giao hưởng này chưa được viết xong vì mới có 2 chương đầu
nhanh và chậm. Biết đâu chính Schubert muốn chơi khăm các nhà phê bình và thính
giả thì sao? Tôi tưởng tượng cảnh nhà soạn nhạc 25 tuổi viết xong chương 2 một
cách nhanh chóng vì dòng nhạc cứ thể tuôn ra và anh chỉ cần viết thôi. Ném cây
bút xuống bàn anh đứng dậy đi lại trong phòng một cách khoan khoái. Anh chợt
nghĩ: Sẽ ra sao nếu trình diễn đến đây nhạc trưởng quay lại chào khán giả như mỗi
khi kết thúc một bản giao hưởng? Kể cả khi giới thiệu trước sẽ có một bản giao
hưởng hai chương chắc sẽ vô khối người đặt chỗ luôn vì tò mò. Đợi cho thiên hạ
thật muốn nghe tiếp nó thì ta sẽ viết tiếp. Một ý tưởng xuất sắc đấy chứ, mình
phục mình ghê! Cùng khoảng thời gian tôi được tiếp cận cello sonata tôi cũng được
thưởng thức trọn vẹn giao hưởng “chưa hoàn thành” trên Tv của Liên xô do nhạc
trưởng nổi tiếng Mravinsky cùng dàn giao hưởng Leningrad. Đó là khi nhà tôi có
tv màu và đài THTW chưa phát được màu
nên chuyển tiếp sóng của TH Liên xô, nhờ đó mà tôi được xem thường xuyên các buổi
hòa nhạc tại nhạc viện Tchaikovsky, đó thực sự là những bữa tiệc âm nhạc trong
thời kỳ nguồn nhạc còn rất kham khổ. Về Schubert ở Thanh xuân Bắc, sau cello
sonata là Con đường mùa đông, liên ca khúc thần thánh đến nay vẫn là mọt trong
những album tôi mê nhất. Anh Dũng nói đây là câu chuyện của một người bỏ nhà đi
giữa đêm đông băng giá, tác phẩm là tuyên ngôn
của kỷ nguyên Lãng mạn với sự đề cao cá nhân. Album này là đĩa mono do
ca sĩ Peter Anders hát. Mỗi tuần tôi chỉ mong cuối tuần để được trả bài guitar
rồi thưởng thức nhưng ca khúc tuyệt diệu này. Cơ hội để được nghe tại nhà đã đến
khi bố tôi đi chuyên gia ở châu Phi về mua được dàn máy Sharp có cả quay đĩa và
cassette, Thế là tôi mượn Con đường mùa Đông thần thánh cùng một album của Gan(Kogan)
về sao sang cassette. Một số fan của Kogan thường gọi yêu ông là Gan. Album của
Gan gồm các vũ khúc nổi tiếng rất dễ nghe, chỉ có điều đĩa xước nhiều quá nên
khi sao xong thì hạt kim bị văng mất. Bố tôi đã nhờ nhiều người đi công tác
châu Âu tìm giúp nhưng không tìm được đồ thay. Dù phần chơi đĩa vinyl chủ yếu
phục vụ tôi nhưng tôi vẫn áy náy mãi về vụ này. Mỗi khi có khách, bố tôi thường
cho dàn trình diễn khả năng tự chơi cả hai mặt đĩa mà không cần lật đĩa bằng
tay. Tức là đầu tết của nó chuyển động trên một cặp dây đến mép đĩa thì chui xuống
gầm và chơi mặt dưới. Nhưng đầu tết ở thế tỳ lên không đủ lực nên âm thanh bị kém hẳn. Dẫu sao tôi vẫn
áy náy vì làm mất một niềm vui nhỏ của bố. Một hôm một thằng bạn đại học đến
chơi đúng lúc tôi đang nghe Con đường Mùa đông. Nó vào nhà rồi vẻ mặt đầy ngạc
nhiên khi nghe thấy nhạc. Sau một lúc nó hỏi với vẻ mặt nghiêm trang như đang
chào cờ: Tao hỏi thật mày nhé, mày thích thứ nhạc này thật à? Tôi gật đầu và bò
ra cười vì cái vẻ mặt kinh ngạc của nó.
Đời sống
âm nhạc ngày càng đi lên nên tôi cũng được thưởng thức nhiều sáng tác của
Schubert theo thời gian. Đến thời nhạc trực tuyến như Spotify tôi còn được thưởng
toàn bộ sáng tác của anh. Không những thế tôi còn được biết về cuộc đời anh.
Franz
Peter Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Vienna, Áo, là con thứ tư của Franz Theodor Schubert, hiệu
trưởng trường phổ thông và Elizabeth Vietz, một người giúp việc gia đình. Sớm thể
hiện năng khiếu âm nhạc từ nhỏ, Franz được học violin với bố, anh trai Ignaz và
nghệ sĩ organ Michael Holzer. Khi 11 tuổi
Franz được nhận vào dàn hợp xướng của Nhà nguyện cung đình. Ngoài lúc hát trong dàn hợp xướng,
cậu còn chơi violin trong dàn nhạc và trở nên quen thuộc với âm nhạc của các bậc
thầy J. Haydn, W. A. Mozart và L. van
Beethoven. Franz là một thanh niên nhút
nhát. Cậu dành phần lớn thời gian rảnh rỗi để luyện tập và sáng tác. Năm mười
lăm tuổi bị vỡ giọng cậu rời ca đoàn nhưng vẫn tiếp tục học ở chủng viện.
Antonio Salieri, giám đốc âm nhạc của hoàng đế, đã nhận ra tài năng của
Schubert và nhận cậu làm học trò.
Năm 1814,
thiên tài của Schubert lần đầu tiên được thể hiện rõ ràng trong tác phẩm
Gretchen am Spinnrade của anh. Tác phẩm lấy cảm hứng từ cuốn Faust của Johann
Wolfgang von Goethe (1749–1832). Bản mass đầu tiên và bản giao hưởng đầu tiên của
anh xuất hiện vào khoảng thời gian này và cho thấy ảnh hưởng của Haydn.
Schubert cũng phổ nhạc năm bài thơ khác của Goethe trong năm đó. Cuối năm 1814,
Schubert làm trợ lý tại trường học của cha mình và bắt đầu làm quen với nhiều
nhà thơ, luật sư, ca sĩ và diễn viên, những người sẽ sớm trở thành người biểu
diễn chính các tác phẩm của anh tại các buổi hòa nhạc riêng tại nhà của họ hoặc
tại nhà những người bạn giàu có hơn của họ. Các ca khúc của Schubert phổ thơ của
các thi sĩ nổi tiếng như Von Herder, F.
G. Klopstock, Friedrich von Schiller và
đặc biệt là Goethe. Khi là giáo viên, Schubert đã sáng tác các giao hưởng từ số
2 đến số 5. Vào thời gian này, anh cũng viết các vũ khúc dễ thương, những bản
valse và Ländler. Vì trong nhà không có đàn piano, năm 1817 Schubert chuyển đến sống tại nhà Franz von
Schober, người bạn nhạc.
Trong thời
gian năm 1820 đến năm 1823, Schubert đã đạt được sự trưởng thành trong các sáng
tác của mình. Hai trong số những vở operetta và một số ca khúc nghệ thuật của
anh đã được công diễn, một số sáng tác của anh bắt đầu được xuất bản và biểu diễn
trong các buổi hòa nhạc riêng. Vào tháng 9 năm 1821 Schubert và Schober rời
Vienna về nông thôn với ý định viết Alfonso und Estrella, vở opera lớn duy nhất
của mình. Ngay sau khi trở về thành phố, anh gặp Edward Bauernfeld, người đã giới
thiệu cho anh những tác phẩm của William Shakespeare. Mùa thu năm 1822, sau khi
hoàn thành Mass La giáng trưởng, Schubert bắt đầu thực hiện giao hưởng Si thứ.
Ba chương đã được phác thảo và hai chương đã hoàn thành nhưng chỉ có vậy. Không
ai biết lý do tác phẩm còn dang dở. Sức khỏe của Schubert bắt đầu suy yếu. Đến
tháng 5, anh phải đi điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Vienna. Rosamunde, một vở kịch
mà Schubert đã viết nhạc nền, đến nay chỉ có phần overture và phần nhạc ballet,
đã thất bại vào năm 1823 và kết thúc những nỗ lực cho một vở opera thành công.
Trong khoảng
năm 1826 và 1827, mặc dù bệnh tình tái phát, Schubert vẫn hoàn thành bốn kiệt
tác, mỗi kiệt tác vẫn là một mặt hàng chủ lực trong nhạc mục của anh: String
Quartet Sol trưởng, Piano Sonata Sol trưởng, Piano Trio Si giáng trưởng và Mi
giáng trưởng. Tháng 3 năm 1827 Schubert là một trong những người cầm đuốc tại đám tang
của Beethoven. Cuối năm đó Schubert đã hoàn thành hai tập tuyệt phẩm cho piano:
Bốn Impromptu D. 899 và Bốn Impromptu D. 935. Năm 1828, Schubert hoàn thành một
số tuyệt phẩm khác: Fantasy Fa thứ cho piano 4 tay, Giao hưởng Đô trưởng, Mass Mi
giáng trưởng và 9 ca khúc phổ thơ của Ludwig Rellstab. Ngày 26 tháng 3 năm
1828, Schubert tham gia buổi hòa nhạc công cộng quy mô lớn duy nhất chỉ dành
riêng cho các tác phẩm của riêng mình. Ngày 11 tháng 11, Schubert bắt đầu bị buồn
nôn và đau đầu. Năm ngày sau, các bác sĩ chẩn đoán sốt thương hàn, một bệnh do
vi khuẩn mà thời đó chưa có thuốc trị. Anh qua đời vào ngày 19 tháng 11 năm
1828 và để lại hơn 1500 sáng tác cùng câu hỏi: Anh sáng tác cách nào để ra được
ngần đó sáng tác chỉ trong khoảng 15 năm? Chừng đó thời gian chắc chỉ đủ cho một
nhạc sĩ khác chép lại khối lượng bản nhạc đó.
Người ta
kể rằng Schubert vớ đâu cũng ra nhạc. Anh có thể viết về bất cứ chuyện
gì gặp trong đời thường. Ví dụ, anh bất chợt cầm cuốn sách nào đó và
'nghía' thấy một bài thơ, và rồi anh nhẩm thành lời một bài hát mới mà ngay sau
khi phát hành, cả thành Vienna hát nó. Anh chia sẻ: “Khi tôi muốn hát về
tình yêu thì nó lại thành nỗi đau khổ. Khi tôi muốn hát về nỗi buồn
thì nó lại hóa thành tình yêu trong tôi.” Cũng như người đàn anh
Beethoven mà Schubert vừa tham gia chôn cất năm trước, cả hai nhà soạn nhạc đều
sáng tác ra những kiệt tác về tình yêu nhưng bản thân họ chưa từng được yêu, tạo
hóa thật quá bất công!
Trong số
các sáng tác của anh có hơn 600 ca khúc nghệ thuật và những ca khúc này đã
đưa anh thành ông Vua ca khúc nghệ thuật. Một đặc điểm nổi bật của các ca khúc
của Schubert là bè piano. Gọi là bè đệm cho bè hát nhưng bè piano không khác mấy
một bản độc tấu. Không giới thiệu rõ cứ chơi riêng bè piano thì người thiếu trải
nghiệm sẽ tin rằng đó là một bản độc tấu piano. Có hai ví dụ rất rõ rệt là ca
khúc Hát trên nước(Auf dem Wasser zu singen) D.774 hay Auf der Bruck D. 853.
Ngoài ca
khúc nghệ thuật, hầu hết lĩnh vực còn lại Schubert đều có kiệt tác đỉnh cao, trừ
opera. Trong số 17 vở opera của Schubert không vở nào còn sức sống đến ngày
nay.
Trong
lĩnh vực giao hưởng Schubert đóng góp 9 bản trong đó có hai kiệt tác nằm đỉnh
cao của thể loại.
Giao hưởng
số 8 dù chỉ có hai chương
Giao hưởng
số 9 Đô trưởng “Lớn” D. 944.
Ngoài ra
nhạc nền cho vở kịch Rosamunde cũng là kiệt tác:
Riêng
trong lĩnh vực concerto, các nhà soạn nhạc khác cứ vô tư sáng tác mà không phải
bận tâm cạnh tranh với Schubert vì anh không viết bản concerto nào. Lý do dễ chấp
nhận cho khoảng trống này chỉ đơn giản là Schubert không thích thể loại này.
Trong
lĩnh vực hòa tấu thính phòng, Schubert có hai đỉnh cao vô song.
Ngũ tấu
piano La trưởng D.667 “Cá hồi”:
Và Tứ tấu
đàn dây số 14 Rê thứ D.810 “Thần chết và Trinh nữ”
Các sáng tác cho piano là mảng quan trọng trong di sản
của Schubert
Kiệt tác đầu tiên cho piano của Schubert tôi biết là
Fantasie Fa thứ cho piano 4 tay do hai bố con danh cầm E Gilels chơi:
https://youtu.be/EMM8NxvoG3M?si=tpgYkBDcsulbr0rV
Sau đó là Khoảnh khắc âm nhạc số 3 từ tập Sáu khoảnh khắc
âm nhạc D.780, về sau tôi đã chuyển soạn thành công cho guitar: https://youtu.be/B3_h8-feHoU?si=8PWjdQeL1Maof_ei
Tiếp theo là hai tập gồm 8 Impromptu mà thực sự tôi không thể chọn ra bản hay nhất. Đó là tập Bốn Impromptu D. 899 và và Bốn Impromptu D. 935.
Với tôi, Franz Schubert là một kỳ nhân hiếm hoi của tạo
hóa: về năng suất sáng tác anh là kỷ lục gia vô song, về thể loại anh đều đạt
được đỉnh cao trong cả thanh nhạc và khí nhạc, còn về chất lượng sáng tác anh
ngang tầm các bậc thầy vĩ đại Bach, Mozart, Beethoven …..
Nhân ngày giỗ kỳ nhân
Trịnh Minh Cường
Nhận xét
Đăng nhận xét