Thời Hy La cổ đại đã có những sân khấu công cộng hàng chục nghìn chỗ. Có lẽ công năng không phải chủ yếu cho biểu diễn âm nhạc. Sau Công nguyên, người ta có thể thưởng thức âm nhạc từ các nghệ sĩ hát rong hoặc trong các buổi lễ nhà thờ Công giáo. Nếu bạn đặc biệt thích một sáng tác nào đó đến khi nào bạn mới được thưởng thức lại? Nếu đó là một bản thánh ca thì bạn phải chăm đi lễ, có thể sau một tuần bạn sẽ được thưởng thức lại. Nếu không đi lễ bạn phải thuộc giới quý tộc cao nhất đủ khả năng nuôi các nhạc sĩ riêng thì bạn muốn nghe bản gì và lúc nào cũng được. Năm 1637 là một mốc quan trọng khi nhà hát opera công cộng đầu tiên được khánh thành ở Venice, đặt dấu chấm hết cho độc quyền nghe nhạc sống của nhà thờ và quý tộc.
Lịch sử âm nhạc đã tiến thêm một nấc về quyền con người, nhưng vẫn còn một vấn đề: một bản nhạc hay là bản nhạc nghe đi nghe lại không chán. Vậy làm sao để được nghe lại bản nhạc yêu thích? Ngoài ra, bạn làm cách nào để chia sẻ cho bạn tri âm một bản nhạc hay? Nếu không đủ khả năng học chơi nhạc thì bạn sẽ phải đợi đến năm 1878 khi Thomas Edison phát minh ra công nghệ thu âm. Thu được âm thanh là tuyệt vời rồi nhưng vẫn chưa chia sẻ cho nhau được vì mới có thu mà chưa phát. Chúng ta chỉ phải đợi 9 năm nữa - năm 1887 và vào chính ngày này tháng 11, Emil Berliner đã được cấp bằng cho phát minh máy hát của ông. Quy trình thu và phát đã hoàn chỉnh để ngày nay chúng ta có vô số cách để thưởng thức và chia sẻ âm nhạc, và cả âm thanh các loại nữa.
Tôi coi phát minh ra máy hát ngang tầm với phát minh ra máy in.
Emile Berliner bắt đầu làm việc trên một máy ghi âm tại Washington DC sau khi thấy máy ghi âm do Tainter và Bell công bố vào năm 1886. Ông đã thành lập một phòng thí nghiệm tại nhà riêng trên Đường Columbia và tháng 4 năm 1887 ông đã cho luật sư cấp bằng sáng chế Joseph Lyons xem một thiết bị sơ khai ghi lại một mẫu bên cạnh trên giấy phủ muội đèn được quấn quanh một xi-lanh, tương tự như máy phonautograph của Leon Scott, nhưng lên bề mặt được bôi một loại dầu trộn với muội đèn để tạo ra một loại mực có chất béo có thể dễ khắc bằng một bút khắc, sau đó tạo ra một bản sao khuôn mẫu được khắc vào kim loại bằng quá trình khắc ảnh, rồi được phát lại trên một thiết bị khác với một đầu đọc theo các rãnh bên và làm rung màng loa. Trong đơn xin cấp bằng sáng chế của mình, Berliner đã đặt tên "máy hát" từ các thuật ngữ mà Leon Scott sử dụng cho "máy ghi âm"( phonautograms) và "bản ghi âm"( phonautographic records) của mình.
Bằng sáng
chế Hoa Kỳ cho máy hát số 372.786 được
Emile Berliner nộp vào ngày 4 tháng 5 năm 1887 và được cấp vào ngày 8 tháng 11
năm 1887. Trong năm 1887, Berliner đã phát triển ý tưởng tạo ra một ma trận âm
bản trực tiếp từ đĩa thủy tinh phủ muội đèn và sản xuất các bản sao kẽm. Đĩa
Berliner sớm nhất được biết đến là một trong những bản sao kẽm này có niên đại
ngày 25 tháng 10 năm 1887. Quy trình mới này được mô tả trong bằng sáng chế Anh
15.232 do ông nộp vào ngày 7 tháng 11 năm 1887.
Tin tức đầu
tiên về phát minh của Berliner được đăng trên tạp chí Electrical World ngày 12 tháng 11 năm 1887. Bài báo mô tả một
thiết bị được vận hành bằng hộp đối trọng và được điều khiển bởi một bộ điều tốc
bánh răng, ghi được bốn phút âm thanh trên một đĩa thủy tinh đường kính 11 inch
ở tốc độ 30 vòng/phút. Sau Lễ Tạ ơn năm
1887, Werner Suess tham gia phòng thí nghiệm của Berliner như một trợ lý để
hoàn thiện thiết bị còn đang ở giai đoạn thử nghiệm. Suess đã giúp cải tiến thiết
bị với bộ tái tạo được gắn trên một cánh tay xoay mà Berliner đã sử dụng trong
một bài giảng công khai và trình diễn tại Viện Franklin vào ngày 16 tháng 5 năm
1888. Những đĩa được phát trong buổi thuyết trình này là bản sao đồng được mạ
điện từ bản gốc bằng sáp. Tháng 8 năm 1888 Berliner bắt đầu sử dụng celluloid từ nhà phát minh J. W. Hyatt thay cho kẽm để tạo
ra các bản sao nhưng celluloid bị mòn quá nhanh. Một số đĩa Hyatt này đã được bảo
tồn tại Bảo tàng Smithsonian. Berliner đã mô tả những cải tiến của mình trong
bài báo "The Improved Gramophone" trên Electrical World ngày 18 tháng
8 năm 1888.
Tháng 7
năm 1889, Berliner đã sử dụng cao su lưu hóa cứng thay vì celluloid cho các đĩa
bản sao của mình. Đến tháng 12 năm 1888, ông đã hoàn tất việc cải tiến để bắt đầu
lên kế hoạch bán cho công chúng. Ông đã chọn châu Âu là điểm khởi đầu và đến đó
vào tháng 8 năm 1889. Ông đã trình diễn thiết bị của mình vào ngày 26 tháng 11
năm 1889 tại Hiệp hội Kỹ thuật Điện ở Berlin. Mẻ đĩa đơn 5 inch đầu tiên với số
lượng 25.000 chiếc đã được sản xuất ở châu Âu vào cuối năm 1889, nhưng "chất
lượng âm thanh rất đáng ngờ đến mức một nhãn giấy hình chữ nhật nhỏ được in với
các từ thực tế được dán vào mặt sau" (Koenigsberg 1990 tr. lvi). Berliner
đã thu xếp để sản xuất những chiếc gramophone đầu tiên ở châu Âu trong chuyến
đi đến Đức từ năm 1889 đến năm 1890. Theo Raymond Wile, "Chính ở Đức, những
khởi đầu thương mại đầu tiên của gramophone đã diễn ra, có lẽ là vào tháng 7
năm 1890. Các nhà sản xuất đồ chơi Kammer và Reinhardt ở Waltershausen
(Thuringia) bắt đầu tiếp thị những chiếc gramophone nhỏ chạy bằng tay và một
con búp bê nói được. Với búp bê, một đĩa
nhỏ 8 cm được sử dụng, và với máy thông
thường sẽ dùng đĩa 12,5 cm. Các đĩa có sẵn trong ba chất liệu trong suốt thời
gian chúng được bán trên thị trường. Không có tài liệu đầy đủ, không thể xác định
được liệu các bản sao được làm bằng cao su cứng hay celluloid có cùng thời điểm
hay không, hoặc chất liệu nào có ưu tiên hơn. Nếu thêm tiền có thể mua được đĩa
kẽm. Các đĩa được sản xuất bởi hai công ty, một công ty chỉ được biết đến với
tên viết tắt GFKC, công ty còn lại là Rhenische Gummi und Celluloid Fabrik
Werkes của Necharan, Mannheim. Các máy và đĩa cũng được nhập khẩu vào Anh, đáng
chú ý nhất do J. Lewis Young, nhưng chỉ có sẵn trong một vài năm ở cả hai nước
"(Wile 1990 tr. 16). Kết quả là, những nỗ lực của Berliner đã dẫn đến sự
thành lập của Deutsche Grammophon Gesellschaft (DGG, sau này trở thành
PolyGram).
Sau khi
trở về Mỹ, Berliner đã thuê một thợ làm đồng hồ ở New York sản xuất một cơ chế
lò xo để cung cấp năng lượng cho máy hát của mình. Berliner thành lập Công ty
American Gramophone vào ngày 23 tháng 4 năm 1891 nhưng công ty này chỉ tồn tại
một thời gian ngắn. Một trợ lý mới, Edward L. Wilson, đã phát triển một máy hát
đĩa hoạt động bằng đồng xu vào năm 1891, nộp đơn xin cấp bằng sáng chế vào ngày
3 tháng 12 và được cấp vào ngày 5 tháng 4 năm 1892. Năm 1894 Wilson đã rời đi.
CUỘC ĐỜI
EMILE BERLINER
Những
năm đầu đời
Emile (gốc
là Emil) Berliner sinh ra ở Hanover, Đức, vào ngày 20 tháng 5 năm 1851 và là một
trong 13 người con của Samuel và Sarah Friedman Berliner, hai trong số 13 người
đã chết yểu. Người cha là một thương gia và học giả Talmud, còn mẹ là một nhạc
sĩ nghiệp dư. Các anh chị em nhà Berliner đều thừa hưởng khả năng tuyệt vời về
tính nhất quán và niềm tự hào về thành tựu từ cả cha lẫn mẹ.
Sau vài
năm học ở Hanover, Berliner được gửi đến Wolfenbüttel gần đó để theo học ở trường
Samsonschule và tốt nghiệp năm 1865 ở tuổi mười bốn. Theo tuyên bố của chính
ông, việc này đánh dấu sự kết thúc quá trình đi học chính thức của ông. Sau đó
Berliner đã làm những công việc lặt vặt trong vài năm ở Hanover để hỗ trợ cha mẹ
đông con. Bị hấp dẫn bởi lời mời làm
nhân viên bán hàng trong một cửa hàng một phần thuộc sở hữu của một người đàn
ông tên là Behrend, một người Hanover đã di cư sang Hợp chủng Quốc một thời
gian trước đó, và có lẽ cũng do muốn thoát khỏi nghĩa vụ quân sự như hầu hết
thanh niên trong năm đó. Sau Chiến tranh Pháp-Phổ, Berliner đã thuyết phục cha
mẹ cho phép mình nhận lời mời làm việc và di cư sang Mỹ. Cuối tháng 3 năm 1870,
ông rời Hanover.
Cửa hàng
bán đồ khô ông định đến làm ở Washington, D.C. Berliner làm thư ký cho
Gotthelf, Behrend và Công ty trong ba
năm. Đến năm 1873, ông quyết rằng một cơ hội tốt hơn đang chờ đợi mình ở Thành
phố New York. Ở đó Berliner lại nhận những
công việc nặng nhọc vào ban ngày trong khi cố gắng cải thiện bản thân bằng cách
học riêng vào ban đêm tại Viện Cooper.
Sau thời gian ngắn làm một "tay trống" (nhân viên bán hàng lưu
động) cho một cơ sở "đồ cho quý ông" (quần áo và phụ kiện dành cho
nam giới) ở Milwaukee, Berliner một lần nữa quay trở lại New York. Lần này ông
may mắn hơn khi được giao vị trí Tổng dọn dẹp trong phòng thí nghiệm của
Constantine Fahlberg, người tìm ra đường saccharine. Trải nghiệm trong phòng thí nghiệm nghiên cứu
này đã khơi dậy tham vọng của Berliner và ông quyết định rằng khoa học, nghiên
cứu và phát minh là định mệnh của mình.
Làm việc
với điện thoại và micro (1876-84)
Năm 1876,
Berliner quay trở lại Behrend và Công ty ở Washington và tiếp tục công việc thư
ký của mình. Đó là năm diễn ra lễ kỷ niệm một trăm năm của nước Mỹ, và trong số
những sự kiện nổi bật diễn ra ở Washington có buổi trình diễn chiếc điện thoại
mới của Alexander Graham Bell. Berliner lần đầu tiên nhìn thấy loại dụng cụ này
và tràn đầy nhiệt huyết và bắt đầu nghiên cứu nó. Với trí tò mò của mình ông thấy
một trong những điểm yếu của dụng cụ này là bộ phận phát âm. Cặm cụi một mình
trong căn nhà trọ, ông đã chế tạo ra một bộ phát âm mới mà ông gọi là bộ phát
âm"tiếp xúc lỏng", một loại micrô giúp tăng âm lượng của giọng
nói. Một thành quả đáng kinh ngạc khi chỉ
sở hữu kiến thức cơ bản về điện và vật lý.
Các thành viên của Công ty Điện thoại American Bell(ABT) mới thành lập
không thể tin được vào thông báo về một người đàn ông trẻ và hoàn toàn vô danh ở
Washington đã đệ trình giấy báo (Berliner đã tự viết nó mà không có sự trợ giúp
của luật sư về bằng sáng chế) tới Văn phòng Sáng chế về một bộ phát âm mới.
Thomas Watson, ông Watson lừng danh về điện thoại, được cử đến Washington để điều
tra. Ông đã hồi đáp bằng một bản báo cáo
tuyệt vời về bộ phát âm và về chính Berliner đến mức công ty đề nghị mua
bản quyền phát minh và thuê Berliner làm trợ lý nghiên cứu. Trong bảy năm tiếp theo, Berliner làm việc
cho Công ty ABT, đầu tiên ở Thành phố New York và sau đó ở Boston. Trong những
năm đó, Berliner đã nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến ngành công nghiệp điện
thoại còn non trẻ và thăng tiến thành một thợ điện lý thuyết hạng nhất.
Năm 1881
khi đang làm việc ở Boston, Berliner đã trở thành công dân Mỹ và cùng năm đó kết
hôn với một phụ nữ trẻ gốc Đức là Cora Adler. Năm 1884 Berliner quyết định hiện
thực hóa giấc mơ ấp ủ từ lâu của mình và
trở thành một nhà nghiên cứu và phát minh. Ông nghỉ việc ở ABT cùng Cora rời Boston và thu xếp một chỗ ở
Washington, D.C.
Trong
ngôi nhà nhỏ của mình ở Washington, Berliner bắt đầu nghiên cứu những cải tiến
bổ sung cho điện thoại của Bell, bán bản quyền sáng chế của mình cho công ty điện
thoại. Năm 1886, ông bắt đầu nghiên cứu phát minh sẽ là sự đóng góp quan trọng
nhất của ông cho thế giới. Đó là sự phát
triển của máy hát, việc ghi và tái tạo âm thanh bằng các bản ghi trên đĩa. Những
phát minh khác của ông bao gồm:
Tấm trải
sàn – Bằng phát minh số 284,268
Ngay từ
năm 1883 khi vẫn đang làm việc cho công ty điện thoại, Berliner đã nhận được Bằng
sáng chế 284.268 cho một loại thảm trải sàn mới mà ông gọi là Thảm trải sàn. Thỉnh
thoảng ông quay lại công việc này và nhận được thêm các Bằng sáng chế số
621.316 vào năm 1899 và số 656.162 vào năm 1900.
Gạch tiêu
âm
Thường
xuyên dự các buổi hòa nhạc, opera và các sự kiện âm nhạc khác cũng như các buổi
thuyết trình, kịch và thuyết pháp, Berliner nhận thấy rõ về chất lượng âm thanh
kém của nhiều hội trường, nhà hát, nhà thờ và giáo đường Do Thái. Đã nghiên cứu
âm học trong nhiều năm, ông quyết định phải làm gì đó để giải quyết vấn đề này.
Ông sớm tạo ra một loại gạch mới có thể dán lên các bức tường của các căn
phòng. Theo lời của nhà phát minh, gạch tiêu âm "... được làm bằng xi măng
xốp, cứng như đá nhưng vẫn có sự cộng hưởng như gỗ khi bị rung bởi sóng
âm." Năm 1926, ông nhận được Bằng sáng chế số 1.573.475 cho loại gạch này.
Sản phẩm này đã thành công rực rỡ trong thời kỳ chưa có hệ thống truyền thanh
công cộng. Trong số các tòa nhà được bổ
sung những viên gạch này có khán phòng của Đại học Drexel ở Philadelphia, Nhà
hát Stanley ở Thành phố Jersey, Nhà thờ Đấng cứu thế ở Montreal, Nhà hát
Leicester ở London, Nhà hát Uptown ở Philadelphia, Nhà thờ Trưởng lão thứ hai ở
Pittsburgh và phòng hội đồng quản trị của
Karachi Port Trust ở Pakistan ngày nay.
Máy bay
trực thăng và động cơ đốt trong nhẹ
Năm 1906
hoặc 1907 Emile Berliner bắt đầu say mê với những khả năng của máy bay. Điều
này khiến ông tham gia vào việc phát triển máy bay trực thăng, như chính ông từng
nói, là một trong những dạng sớm nhất của “máy nặng hơn không khí” được hình
thành, ít nhất là từ thời Leonardo da Vinci. Berliner đã thiết kế và sáng chế
ra một loại động cơ đốt trong mới rất nhẹ để cung cấp năng lượng cho cánh quạt.
Đến năm 1909, ông đã dựng được một mô hình máy có khả năng nâng trọng lượng của
hai người đàn ông trưởng thành, tuy nhiên chiếc trực thăng đã được buộc chặt
vào mặt đất và chưa thực hiện được chuyến bay nào. Dù Berliner từ bỏ dự án trực
thăng nhưng con trai ông là Henry vẫn tiếp tục nó.
Danh
tiếng của Berliner và các phát minh khác
Emile
Berliner chưa từng có bất kỳ mối quan hệ căng thẳng nào với các đồng nghiệp là
nhà phát minh của mình; dường như ông rất hòa đồng. Khi một số sự coi thường xảy
đến với ông, không phải Berliner mà một số người ngưỡng mộ ông đã “cầm vũ khí”
để bảo vệ danh tiếng của ông. Ví dụ, vào những năm đầu thế kỷ 20, một số nhà
văn đã tuyên bố rằng chính Thomas A. Edison mới là người đã phát minh ra bộ
phát âm điện thoại tiếp xúc lỏng.
Theodore Vail, chủ tịch Công ty Điện thoại và Điện báo Hoa Kỳ, đã viết một
lá thư tuyên bố rằng theo hiểu biết chắc chắn của ông thì chính Emile Berliner
là người đã phát minh ra loại micro đó. Khi Edison được tặng bức tượng
"Orpheus Khám phá Máy ghi Đĩa", lại không phải Berliner mà là một loạt
bạn bè của ông đã phàn nàn, giống như họ đã phàn nàn khi Quốc hội đang xem xét
trao cho Edison một huy chương vì sự phát triển của máy hát bên cạnh vô số phát
minh của ông đích thực.
Tuy
nhiên, Berliner vẫn lo ngại về danh tiếng của mình và lưu ý những tuyên bố đáng
ngờ của người khác là điều hiển nhiên trong các bộ sưu tập của Thư viện Quốc hội. Thư viện có một cuốn sổ lưu niệm dường như do
Berliner biên soạn với các bài báo và thư liên quan đến việc Thomas Edison được nhận công trạng phát minh ra máy hát của
Berliner. Tương tự như vậy, Berliner đã viết trên trang bìa của một tập sách
tranh chấp về điện thoại rằng có thể phải bảo quản cuốn sách này để bảo vệ danh
tiếng của mình.
Trong nhiều
năm Emile Berliner đã đóng vai trò tích cực trong các hoạt động cộng đồng và xã
hội, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế công cộng. Năm 1909, ông quyên góp quỹ xây
dựng bệnh xá tại Viện điều dưỡng bệnh lao Starmont ở Washington Grove,
Maryland, để tưởng nhớ cha mình.
Berliner là chủ tịch Hiệp hội Bệnh lao Washington trong một số năm. Năm
1924, ông thành lập Văn phòng Giáo dục Sức khỏe nhằm đẩy mạnh giáo dục vệ sinh
công cộng và sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em.
Chủ đề về
sức khỏe trẻ em rất gần gũi với ông. Năm 1900,
Alice con gái út của ông bị bệnh nặng, rất có thể là do vi khuẩn lây nhiễm
từ một số đồ ăn hoặc uống. Vì căn bệnh này mà Berliner đã vận động chống lại tỷ
lệ tử vong cao ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Ông trở thành một người ủng hộ nhiệt
thành cho sữa sạch và bằng mọi cách có thể, ông thuyết phục các bà mẹ hãy “đun
sữa” trước khi dùng. Ông cũng trở nên chán ghét những gì ông cho là trẻ em bỏ
bê việc giữ vệ sinh sạch sẽ. . Năm 1919, ông và một số cộng sự đã soạn và xuất
bản một cuốn sách vẽ màu hấp dẫn kèm theo lời lẽ có vần minh họa những hậu quả
sẽ xảy ra với những đứa trẻ không giữ vệ sinh. Với tựa đề Muddy Jim, cuốn sách
đã được tặng cho các trường học ở khu vực Washington và những nơi khác. Tất cả
lời lẽ có vần đều do Emile Berliner viết.
Cuốn sách nhanh chóng được dịch sang tiếng Pháp để có thể phân phối ở tỉnh Quebec của Canada.
Chủ nghĩa
phục quốc Do Thái là một sự nghiệp khác có liên quan sâu sắc đến Emile
Berliner. Từ năm 1913 đến năm 1918, Berliner đã viết bốn bài báo về chủ đề này:
“Địa vị xã hội của người Do Thái”, “Chủ nghĩa phục quốc Do Thái và tinh thần Mỹ”,
“Chủ nghĩa Mỹ và chủ nghĩa phục quốc Do Thái” và “Suy nghĩ về chủ nghĩa phục quốc
Do Thái”. Năm 1919, Berliner được bổ nhiệm
làm chủ tịch Ủy ban Tổ chức tiệc chiêu đãi cho giáo sĩ Do Thái nổi tiếng
Stephen S. Wise. Trong cùng năm đó, ông đã viết một lá thư cho các biên tập
viên của cả tờ Washington Star và tờ Washington Post liên quan đến lễ kỷ niệm lần
thứ hai cho tuyên bố năm 1917 của chính khách Anh Arthur Balfour rằng
"Chính phủ của Bệ hạ ủng hộ việc thành lập một ngôi nhà quốc gia cho người
Do Thái ở Palestine. " Năm 1919, Berliner viết một bài báo khác về “Nghiên
cứu hướng tới giải pháp cho các vấn đề công nghiệp trong Khối thịnh vượng chung
theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái mới”.
Berliner
thừa hưởng niềm yêu thích âm nhạc từ mẹ và là một người đam mê hòa nhạc. Việc
ông có thể chơi piano đã được chứng thực bởi một trong những trợ lý của ông
trong phòng thí nghiệm máy hát, người này nói rằng chính Berliner là nghệ sĩ
piano trong một số bản thu âm đầu tiên. Năm 1897, ông viết một bài hát có tựa đề
"Quốc ca Colombia" để vinh danh thủ đô của đất nước, Quận Columbia.
Nó được chuyển soạn cho tứ ca nam và được thu âm vào năm 1897 trên đĩa hát
Berliner 4288 và dường như đã được thu âm lại nhiều lần trước tháng 6 năm 1900.
Trong lá
thư ngày 9 tháng 5 năm 1928 gửi cho vợ về tang lễ cho chính mình, Berliner bày
tỏ cả tình cảm nhân đạo và yêu nước của mình:
Khi anh
ra đi anh không muốn một đám tang tốn kém. Những đám tang cầu kỳ gần như là một
lãng phí tiền bạc phải tội. Anh muốn
trong phần đầu Alice sẽ chơi bản Sonata ánh trăng và phần cuối có thể Josephine
sẽ chơi bản Hành khúc tang lễ của Chopin. Đưa một ít tiền cho một số bà mẹ
nghèo có con nhỏ và chôn anh vào lúc hoàng hôn. Anh biết ơn vì đã sống ở Hoa Kỳ
và anh nói với con cháu mình rằng chúng nên phấn đấu để đạt được sự bình yên
trong tâm hồn.
Emile
Berliner qua đời vào ngày 3 tháng 8 năm 1929, thọ 79 tuổi.
8/11/2023
Trịnh
Minh Cường dịch
Nhân ngày
sinh của máy hát.
Nhận xét
Đăng nhận xét