Từ nguyên
Các từ
lute và oud có thể bắt nguồn từ tiếng Ả Rập al-ʿoud (العود - nghĩa đen là
"gỗ"). Có thể để chỉ miếng gảy bằng gỗ theo truyền thống dùng để chơi
đàn oud, hoặc chỉ những dải gỗ mỏng được dùng làm mặt sau hoặc chỉ mặt đàn bằng
gỗ để phân biệt với các cây đàn tương tự có thân làm bằng da. Đã có nhiều giả
thuyết về nguồn gốc của tên tiếng Ả Rập này. Học giả âm nhạc Eckhard Neubauer
cho rằng oud có thể được vay mượn từ rōd hoặc rūd của tiếng Ba Tư có nghĩa là
dây. Còn nhà khảo cổ học âm nhạc Richard J. Dumbrill cho rằng rud bắt nguồn từ rudrī
(रुद्री, có nghĩa là "nhạc cụ dây") của tiếng Phạn và được chuyển
sang tiếng Ả Rập và các ngôn ngữ châu Âu thông qua một ngữ tộc Semit. Tuy
nhiên, một giả thuyết khác từ các học giả ngôn ngữ Semit cho rằng từ Ả Rập ʿoud
bắt nguồn từ tiếng Syriac ʿoud-a, có nghĩa là "que gỗ" và "gỗ
đang cháy" - tương tự như 'ūḏ của tiếng Do Thái trong Kinh thánh chỉ một
que gỗ dùng để cời củi gỗ đang cháy. Henry George Farmer lưu ý sự giống nhau giữa
al-ʿūd và al-ʿawda ("sự trở lại" - của hạnh phúc)
Những cây lute đầu tiên
Curt
Sachs định nghĩa đàn lute trong phần thuật ngữ của công trình Lịch sử nhạc cụ(The
History of Musical Instruments) là "gồm thân đàn và cần đàn vừa đóng vai
trò là chỗ giữ vừa là phương tiện kéo căng dây đàn ở ngoài thân đàn". Định
nghĩa của ông tập trung vào đặc điểm của thân đàn và cần đàn chứ không phải
cách phát âm của dây đàn, vì vậy đàn violin được tính là "đàn lute có vĩ
kéo". Sachs cũng phân biệt giữa
"đàn lute cần dài" và loại cần ngắn. Loại cần ngắn bao gồm hầu hết
các nhạc cụ hiện đại của chúng ta: " lute, guitar, hurdy-gurdy và toàn bộ
họ viol và violin". Curt Sachs (1881 –
1959) là nhà âm nhạc học người Đức và là một trong những người sáng lập
ra ngành organology hiện đại (ngành khoa học nghiên cứu về nhạc cụ). Trong số
những đóng góp của ông có hệ thống Hornbostel–Sachs do ông cùng Erich von Hornbostel tạo nên.
Đàn lute
dài là loại lute cổ hơn; "đàn tanbūr Ả Rập ... đã bảo tồn trung thực hình
dáng bên ngoài của đàn lute cổ xưa của Babylonia và Ai Cập". Ông tiếp tục
phân loại đàn lute dài thành "đàn lute có khoét lỗ " và "đàn
lute cần dài". Đàn lute có lỗ với cần được làm từ một thanh gỗ xuyên qua
thân đàn (như lute cần dài của Ai Cập cổ đại và đàn gunbrī châu Phi hiện đại).
Đàn lute
dài có cần gắn liền thân gồm có đàn
sitar, đàn tanbur và đàn tar: đàn dutār có hai dây, đàn setār có ba dây, đàn
čārtār có bốn dây, đàn pančtār có năm dây.
Cuốn sách
của Sachs xuất bản năm 1941 và bằng chứng khảo cổ học ông có cho thấy đàn lute
đầu tiên xuất hiện vào khoảng năm 2000 trước Công nguyên. Những khám phá kể từ
đó đã đẩy sự xuất hiện của đàn lute sớm hơn nữa - khoảng năm 3100 trước Công nguyên.
Ngày nay
nhà âm nhạc học Richard Dumbrill sử dụng
từ lute một cách rõ ràng hơn để thảo luận về các nhạc cụ đã tồn tại hàng thiên
niên kỷ trước khi thuật ngữ "lute" được đặt ra. Dumbrill đã ghi nhận
bằng chứng biểu tượng hơn 3.000 năm về đàn lute ở Lưỡng Hà trong cuốn The Archaeomusicology of the Ancient Near
East của ông. Theo Dumbrill, họ đàn lute bao gồm các nhạc cụ ở Lưỡng Hà từ trước
năm 3000 TCN. Ông đưa ra một cái triện hình trụ có niên đại từ khoảng năm 3100
TCN hoặc sớm hơn và hiện đang được Bảo tàng Anh sở hữu. Cái triện này mô tả ở một
mặt những gì được cho là một người phụ nữ đang chơi một cây "đàn
lute" bằng một cái que. Giống như Sachs, Dumbrill coi chiều dài là đặc điểm
phân biệt đàn lute và chia lute Lưỡng Hà
thành loại dài và loại ngắn. Cuốn sách của ông không đề cập đến các nhạc cụ ngắn
hơn đã trở thành đàn lute của châu Âu ngoài việc đưa ra các ví dụ về đàn lute
ngắn hơn trong thế giới cổ đại. Ông tập trung vào những cây đàn lute dài hơn của
Lưỡng Hà, nhiều loại đàn dây có cần đàn phát triển trên khắp thế giới cổ đại: Ấn
Độ (Gandhara và những loại khác), Hy Lạp, Ai Cập (Middle Kingdom), Iran
(Elamite và những loại khác), Do Thái/Israel, Hittite, La Mã, Bulgar, Turkic,
Trung Quốc, Armenia/Cilician. Ông nêu tên trong số những cây đàn lute dài
có pandura và tanbur.
Dòng lute
cần ngắn được phát triển hơn nữa về phía đông của Lưỡng Hà, ở Bactria và
Gandhara, thành một cây đàn lute ngắn hình quả hạnh. Curt Sachs đã nói về các
mô tả đàn lute Gandharan trong nghệ thuật, nơi chúng được trình bày trong sự kết
hợp của "nghệ thuật Tây Bắc Ấn Độ" dưới "những ảnh hưởng mạnh mẽ
của Hy Lạp". Đàn lute cần ngắn trong các tác phẩm nghệ thuật Gandhara này
là "tổ tiên đáng kính của các dòng lute Hồi giáo, Trung-Nhật và châu
Âu". Ông mô tả đàn lute Gandhara có "thân hình quả lê thuôn dần về
phía cần ngắn, ngựa ở phía trước, khóa ở bên và có bốn hoặc năm dây"
Đàn
barbat Ba Tư
Trong khoảng
năm 224 đến 651 Bactria và Gandhara trở thành một phần của Đế chế Sasanian. Dưới
thời nhưng người Sasanian, một cây đàn lute ngắn hình quả hạnh từ Bactria được
gọi là barbat hoặc barbud. Về sau nó được phát triển thành đàn oud hoặc ud của giới
Hồi giáo. Khi người Moor chinh phục Andalusia vào năm 711, họ đã mang theo cây
ud hoặc quitra của mình vào một quốc gia đã biết đến một truyền thuyết đàn lute
dưới thời người La Mã – cây đàn pandura.
Trong thế
kỷ thứ 8 và thứ 9, nhiều nghệ sĩ từ thế giới Hồi giáo đã đổ về bán đảo Iberia. Trong
số họ có Abu l-Hasan 'Ali Ibn Nafi' (789–857), một nhạc sĩ nổi bật từng được theo
học Ishaq al-Mawsili (mất năm 850) ở Baghdad và bị lưu đày đến Andalusia trước
năm 833. Ông đã dạy chơi đàn oud và được ghi nhận là người thêm dây thứ năm vào
cây đàn oud của mình và thành lập một trong những trường âm nhạc đầu tiên ở
Córdoba.
Đến thế kỷ
11, Iberia theo Hồi giáo đã trở thành trung tâm sản xuất nhạc cụ. Những cây đàn
của họ dần lan đến Provence chinh phục những người hát rong rồi cuối cùng lan rộng
ra phần còn lại của châu Âu. Trong khi châu Âu phát triển đàn lute, đàn oud vẫn
là trung tâm của âm nhạc Ả Rập, rộng hơn là âm nhạc Ottoman và trải qua một loạt
các biến đổi.
Cùng với
việc người Moor đưa đàn lute vào Tây Ban Nha qua xứ Andalusia, một địa điểm
quan trọng khác trong quá trình làn truyền đàn lute từ văn hóa Ả Rập sang văn
hóa châu Âu là Sicily, nơi đàn lute được du nhập theo người Byzantine hoặc các
nhạc sĩ Hồi giáo sau đó. Có những nghệ sĩ lute kiêm ca sĩ tại cung đình Palermo sau khi người Norman chiếm
được hòn đảo này từ người Hồi giáo, và đàn lute được xuất hiện nhiều trong các
bức tranh trần nhà ở Cappella Palatina của hoàng gia Palermo, được Vua Roger II
người Norman khánh thành ở Sicily vào năm 1140. Cháu trai ông là Frederick II,
Hoàng đế La Mã Thần thánh (1194–1250) tiếp tục tuyển người Hồi giáo vào cung
đình của mình, trong đó có cả các nhạc
sĩ người Moor.
Frederick
II đã đến thung lũng Lech và Bavaria trong khoảng thời gian từ năm 1218 đến năm
1237 với một "đoàn tùy tùng người Moor Sicily". Đến thế kỷ 14, đàn
lute đã tràn ngập khắp nước Ý. Có thể do ảnh hưởng văn hóa của các ông vua và
hoàng đế Hohenstaufen đóng đô tại Palermo, đàn lute cũng xâm nhập đáng kể vào
các vùng đất nói tiếng Đức. Đến năm 1500, thung lũng và thành phố Füssen có một
số gia đình chế tác đàn lute. Và trong hai thế kỷ tiếp theo, khu vực này đã có
"những tên tuổi nổi tiếng của nghề chế tác đàn lute ở thế kỷ 16 và 17.” Mặc
dù đàn lute ngắn chủ yếu du nhập vào Tây Âu dẫn đến nhiều kiểu đàn lute khác
nhau. Đàn lute ngắn cũng du nhập vào phía đông châu Âu: ngay từ thế kỷ 6, người
Bulgar đã mang loại nhạc cụ cần ngắn gọi là komuz đến Balkan.
Từ thời
Trung cổ đến Baroque
Trong thời
Trung cổ đàn lute là một nhạc cụ có bốn hoặc năm dây được chơi bằng miếng gảy bằng
lông ngỗng. Kích cỡ đa dạng và đến cuối thời Phục hưng có ghi chép về bảy cỡ đàn(đến
quãng tám trầm lớn). Đệm hát có lẽ là chức năng chính của đàn lute Trung cổ,
nhưng có rất ít bản nhạc chắc chắn của đàn lute còn lại từ trước năm 1500. Nhạc
đệm hát thời Trung cổ và đầu thời Phục hưng chắc chủ yếu là chơi ứng tác và
truyền tay nên không có bản nhạc.
Trong mấy
thập kỷ cuối thế kỷ 15, để chơi nhạc đa âm đang phổ biến chỉ trên một nhạc cụ,
những người chơi đàn lute dần bỏ lông ngỗng để dùng ngón tay để gảy đàn. Số lượng
các dây đàn tăng lên lên sáu và hơn thế. Tuy là nhạc cụ độc tấu hàng đầu của thế
kỷ 16 nhưng người ta vẫn dùng đàn lute để
đệm cho hát.
Khoảng
năm 1500, nhiều nghệ sĩ đàn lute người Iberia đã sử dụng cây vihuela de mano(vihuela
chơi bằng tay, vihuela là một tiền thân của guitar), một nhạc cụ hình dáng như viol(tiền
thân của violin) được lên dây như lute và cả hai nhạc cụ đều song song tồn tại.
Cây đàn này cũng tìm được đường đến các vùng của Ý do người Tây Ban Nha cai trị
(đặc biệt là Sicily và các quốc gia thuộc giáo hoàng dưới thời giáo hoàng
Borgia Alexander VI, người đã đưa nhiều nhạc sĩ Catalan đến Ý)và ở đó nó được gọi
là viola da mano(viol chơi bằng tay).
Vào cuối
thời Phục hưng, số lượng dây đã tăng lên 10, còn trong thời Baroque, số dây tiếp
tục tăng đến 14, đôi khi lên tới 19. Do dây này là dây đôi nên số dây đơn có thể
lên tới 35 dây đòi hỏi phải có sự đổi mới về cấu trúc cho đàn lute. Vào cuối
quá trình phát triển của đàn lute, lute cùng theorbo và torban có phần mở rộng
dài gắn vào đầu đàn có khóa chỉnh để tạo độ dài dao động lớn hơn cho dây trầm
và vì ngón tay của con người không đủ dài để chặn dây trên cần đủ rộng cho 14 dây,
các dây trầm được đặt ở ngoài cần và luôn là dây buông, tức là không cần dùng
ngón tay trái bấm chúng. "Đàn lute là một nhạc cụ rất mỏng manh và vì vậy dù
có rất nhiều đàn lute còn lại đến nay nhưng rất ít cây có hộp cộng hưởng ban đầu
còn có thể chơi được," điều này khiến cây Rauwolf Lute trở nên đáng chú ý.
Đây là cây lute do nghệ nhân Sixtus Rauwolf chế tác tại Augsburg, Đức.
Trong suốt
thời Baroque, đàn lute ngày càng bị đẩy xuống nhóm bè đệm continuo và cuối cùng
bị thay thế bằng đàn phím. Đàn lute gần như không còn được sử dụng sau năm 1800,
chỉ có một số kiểu lute vẫn được sử dụng ở Đức, Thụy Điển và Ukraine trong một
thời gian.
Cấu
trúc
Thân
đàn
Đàn lute
được làm hầu như hoàn toàn bằng gỗ. Mặt đàn là một tấm gỗ mỏng phẳng hình giọt
nước, thường bằng gỗ vân sam(spruce). Trong tất cả các loại đàn lute, hộp công
hưởng có một lỗ thoát âm duy nhất(đôi khi có ba lỗ) được trang trí phía dưới
dây đàn gọi là hoa hồng. Lỗ thoát âm không hở mà được che bằng một lưới có hình
dạng một dây leo quấn quanh hoặc một nút trang trí được chạm trực tiếp vào gỗ của
hộp cộng hưởng.
Hình dạng
của hộp cộng hưởng của đàn lute tương đối phức tạp, bao gồm một hệ thống thanh
giằng đặt vuông góc với dây đàn ở các độ dài cụ thể dọc theo toàn bộ chiều dài
của bụng đàn, các đầu của thanh giằng này được tạo góc để tiếp xúc với các
thanh giằng ở hai bên vì lý do cấu trúc.
Sau khi mặt
đàn được ghép với mặt bên, chỉ viền thường được ghép xung quanh mép của thân
đàn. Chỉ viền rộng khoảng một nửa độ dày của thân đàn và thường được làm bằng gỗ
có màu tương phản với mặt. Rãnh xẻ cho chỉ viền nửa phải cực kỳ chính xác để
tránh làm ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của cấu trúc.
Mặt
lưng
Mặt lưng
được ghép từ những dải gỗ cứng mỏng (gỗ thích, anh đào, mun, gỗ hồng sắc hoặc
các loại gỗ âm thanh khác) được gọi là sườn được ghép bằng keo theo cạnh để tạo
cho thân đàn hình dạng tròn. Mặt trong có các thanh giằng để tăng sức bền cho
nó.
Cần
Cần được
làm bằng gỗ nhẹ với lớp gỗ cứng, thường là gỗ mun, để tạo sức bền cho cần chịu
được lực căng dây đàn. Không như hầu hết các đàn dây hiện đại, cần đàn lute được
gắn phẳng với mặt đàn. Khóa đàn lute trước thời Baroque nghiêng về phía sau cần
đàn gần 90° , có lẽ để giúp giữ dây đàn có độ căng thấp ổn định trên lược. Theo
truyền thống, lược đàn không dán cố định mà chỉ được cố định bằng áp lực của chính
dây đàn. Khóa lên dây bằng gỗ cứng hình thon đơn giản và được cố định bằng ma
sát với các lỗ khoan qua hộp khóa. Giống các nhạc cụ khác sử dụng khóa ma sát,
gỗ để làm khóa rất quan trọng. Vì gỗ bị giãn nở theo thời gian và độ ẩm nên mặt
cắt ngang hình tròn của nó phải luôn ổn định để hoạt động bình thường - vì không
có bánh răng hoặc các chi tiết hỗ trợ cơ học khác để lên dây đàn. Khóa đàn thường
được làm từ các loại gỗ cây ăn quả phù hợp như gỗ lê châu Âu hoặc các loại gỗ
tương tự có độ ổn định tương đương. Khoảng năm 1720, J. Mattheson đã nói:
"Nếu một người chơi đàn lute sống được tám mươi năm, thì chắc chắn anh ta phải
dành sáu mươi năm để lên dây.” 😊
Cầu(ngựa)
Cầu đàn
lute thường được gắn vào mặt đàn ở khoảng giữa 1/5 và 1/7 chiều dài mặt đàn. Trên
cầu không có rãnh riêng cho từng dây nhưng có các lỗ để gắn dây vào. Chiều cao
cầu thấp dần từ đầu cho dây trầm xuống đầu cho dây cao. Cầu thường được sơn đen
bằng than đen trộn chất kết dính và thường được khắc các họa tiết trang trí.
Các họa tiết cuộn hoặc họa tiết trang trí khác ở đầu cầu là một phần không thể
thiếu của cầu đàn lute nhưng về sau không có trên một số cây guitar thời Phục
hưng(so sánh với những cây guitar của Joachim Tielke).
Phím
Các phím
đàn được làm bằng các vòng ruột thú buộc quanh cần đàn. Chúng sẽ bị sờn sau một
thời gian sử dụng nên phải được thay thường
xuyên. Một số phím bằng gỗ thường được dán vào thân đàn để có thể giữ được các nốt
cao nhất, cao hơn dây buông đến một quãng tám, dù một số người cho rằng cách
này đã lỗi thời, tuy nhiên John Dowland và Thomas Robinson đã mô tả cách dán
các phím đàn bằng gỗ vào mặt đàn. Khi được lựa chọn giữa nylon và ruột thú, nhiều
nghệ nhân thích sử dụng ruột thú hơn vì nó dễ dàng vừa với góc nhọn ở mép mặt cần
đàn hơn.
Đầu tiên
dây đàn được làm bằng ruột gia súc, thường từ ruột non của cừu và có thể kết hợp
với kim loại cho các dây trầm. Về sau dù đã có chất dẻo tổng hợp – nylon, người
ta vẫn sản xuất dây ruột thú. Tuy kém ổn định nhưng dây ruột thú vẫn được một số
nghệ sĩ yêu thích khi chơi các sáng tác trong những thời kỳ đầu.
Đáng chú
ý là các dây trầm trên nhạc cụ lịch sử là dây cáp. Đó là một số dây ruột thú được
bện lại với nhau rồi ngâm trong dung dịch kim loại nặng để tăng khối lượng dây.
Dây cáp có thể có đường kính khá lớn so với dây nylon quấn kim loại có cùng cao
độ.
Các dây trên
đàn lute được sắp xếp theo từng bậc dây, mỗi bậc dây có hai dây, mặc dù bậc dây
cao nhất thường chỉ gồm một dây gọi là chanterelle. Trên các đàn lute cuối thời
Baroque, hai bậc dây trên cùng là dây đơn. Các bậc dây được đánh số theo thứ tự
từ bậc dây cao nhất, do đó chanterelle
là bậc đầu tiên, cặp dây tiếp theo là bậc thứ hai, v.v. Do đó, một đàn lute thời
Phục hưng 8 bậc dây thường có 15 dây, và một đàn lute Baroque 13 bậc dây có 24
dây.
Các bậc
dây được chỉnh đồng âm cho các bậc dây cao và giữa, còn với các bậc dây trầm
hơn, một trong hai dây cao hơn dây kia một quãng tám, kiểu lên dây này thay đổi
theo lịch sử của đàn lute. Hai dây của một bậc dây hầu như luôn được gảy và ngừng
rung cùng nhau như một dây duy nhất, có những sáng tác có thể yêu cầu hai dây của
một bậc dây phải được gảy riêng biệt. Việc lên dây đàn lute là một vấn đề phức
tạp sẽ được trình bày trong một phần riêng. Thiết kế của đàn lute làm cho nó cực
kỳ nhẹ so với kích thước của nó.
Đàn
lute ngày nay
Bắt đầu vào
khoảng năm 1900 đàn lute bắt đầu được hồi sinh nhờ sự quan tâm đến âm nhạc có
tính lịch sử. Sự hồi sinh mạnh mẽ hơn nhờ các trào lưu âm nhạc đầu thế kỷ 20.
Những nhà tiên phong chính trong sự hồi sinh này là Julian Bream, Hans Neemann,
Walter Gerwig, Suzanne Bloch và Diana Poulton. Các buổi hòa nhạc đàn lute hiện
không còn xa lạ với rất nhiều nghệ sĩ lute chuyên nghiệp. Đặc biệt là các nhà
soạn nhạc cũng sáng tác những tác phẩm mới cho nhạc cụ này. Trong thời đầu của
trào lưu âm nhạc cổ, nhiều cây đàn lute được chế tác bởi những nghệ nhân đang
hoạt động, những nghệ nhân chuyên về guitar cổ điển. Những cây đàn lute như vậy
được chế tác nặng nề với cấu trúc tương tự như guitar cổ điển, với những nan quạt,
mặt đàn dày nặng, phím đàn cố định và mặt hông có gia cố, tất cả đều không giống
những cây lute lịch sử. Khi kiến thức về nghề chế tác đàn lute tăng lên, các
nghệ nhân bắt đầu chế tác nhạc cụ dựa trên các mẫu nhạc cụ lịch sử và cho thấy
rằng chúng nhẹ hơn và dễ chơi hơn.
Đàn lute
được chế tác hiện nay luôn là bản sao hoặc bản sao gần giống của những cây đàn lịch
sử vẫn còn và thuộc sở hữu của các bảo tàng hoặc bộ sưu tập tư nhân. Nhiều cây
được chế tác theo đơn đặt hàng, nhưng ngày càng có nhiều nghệ nhân đàn lute chế
tác để bán và có một thị trường đàn đã qua sử dụng tuy còn nhỏ nhưng khá sôi động.
Do thị trường khá hạn chế, đàn lute thường đắt hơn các nhạc cụ hiện đại sản xuất
hàng loạt. Ví dụ, có thể mua được guitar và violin sản xuất công nghiệp với giá
rẻ hơn so với đàn lute loại rẻ, trong khi ở mức cao nhất của các nhạc cụ hiện đại,
đàn guitar và violin có xu hướng cao giá hơn. Không như xưa kia, ngày nay có
nhiều loại đàn lute: lute Trung cổ 5 dây, lute Phục hưng 6 đến 10 dây ở nhiều
cao độ để độc tấu và hòa tấu các tác phẩm thời Phục hưng, đàn archlute của các
sáng tác Baroque, đàn lute 11 dây lên dây theo giọng Rê thứ cho âm nhạc Pháp, Đức
và Séc thế kỷ 17, đàn lute Baroque Đức 13/14 dây lên theo giọng Rê thứ cho âm
nhạc thời cuối Baroque và đầu Cổ điển, đàn theorbo cho nhóm bè trầm continuo
trong hòa tấu nhạc Baroque, đàn gallichon/mandora, bandora, orpharion và nhiều
loại khác.
Thực hành
đàn lute đã đạt đến tầm đáng kể trong những năm gần đây nhờ số lượng nghệ sĩ
lute đẳng cấp thế giới ngày càng tăng: Rolf Lislevand, Hopkinson Smith, Paul
O'Dette, Christopher Wilke, Andreas Martin, Robert Barto, Eduardo Egüez, Edin
Karamazov, Nigel North, Christopher Wilson, Luca Pianca, Yasunori Imamura,
Anthony Bailes, Peter Croton, Xavier Diaz-Latorre, Evangelina Mascardi và Jakob
Lindberg. Ca sĩ kiêm ca khúc gia Sting cũng đã chơi đàn lute và archlute trong
và ngoài các dự án hợp tác với Edin Karamazov, và Jan Akkerman đã phát hành hai
album nhạc đàn lute vào những năm 1970 khi ông là tay đàn guitar trong ban nhạc
rock Hà Lan Focus. Nghệ sĩ lute kiêm nhà soạn nhạc Jozef van Wissem đã sáng tác
nhạc phim cho bộ phim Only Lovers Left Alive của Jim Jarmusch.
Nhạc mục
Đàn lute đã
phổ biến ở châu Âu muộn nhất từ thế kỷ 13, và các tài liệu đã đề cập đến nhiều
nghệ sĩ biểu diễn và nhà soạn nhạc đầu tiên. Tuy nhiên, bản nhạc cho lute sớm
nhất vẫn còn lại có niên đại từ cuối thế kỷ 15. Nhạc cho lute phát triển mạnh mẽ
trong thế kỷ 16 và 17 với nhiều nhà soạn nhạc đã xuất bản các tuyển tập nhạc của
họ. Tuy các học giả hiện đại đã tìm thấy rất nhiều bản thảo từ thời đó nhưng số
lượng bản nhạc bị thất lạc cũng vẫn nhiều. Vào nửa sau của thế kỷ 17, đàn lute,
vihuela và các nhạc cụ tương tự bắt đầu kém phổ biến dần nên chỉ có rất ít bản
nhạc được viết cho lute sau năm 1750. Sự quan tâm đến nhạc đàn lute chỉ được hồi
sinh vào nửa sau của thế kỷ 20.
Ứng tác
là đặc điểm quan trọng của việc trình tấu đàn lute nên phần lớn nhạc mục chắc
không bao giờ được viết ra. Hơn nữa, phải đến khoảng năm 1500, các nghệ sĩ lute
mới bắt đầu chuyển từ miếng gảy sang gảy bằng ngón tay. Sự thay đổi đó đã mở đường
cho nhạc đa âm phức tạp đòi hỏi phải phát triển ký âm. Trong một trăm năm tiếp
theo, ba trường phái ký âm tab đã dần phát triển: Ý (được sử dụng ở Tây Ban
Nha), Đức và Pháp. Chỉ có trường phái cuối cùng tồn tại đến cuối thế kỷ 17. Các
ký âm tab sớm nhất được biết đến là bản nhạc dành cho một nhạc cụ sáu dây, mặc
dù các bằng chứng cho thấy về đàn lute bốn và năm dây trước đó đã tồn tại. Ký âm
tab phụ thuộc vào nhạc cụ thực tế mà bản nhạc được viết cho nó. Để đọc được nó,
người chơi đàn phải biết cách lên dây, số lượng dây, v.v. của nhạc cụ.
Các hình
thức nhạc cho lute thời Phục hưng và Baroque tương tự như nhạc cho đàn phím của
các thời kỳ đó. Các bản nhạc kiểu tab của các sáng tác thanh nhạc rất phổ biến
cũng như nhiều điệu nhảy khác nhau, một số trong số đó đã thất truyền trong thế
kỷ 17, như piva và saltarello chẳng hạn. Sự hình thành của nhạc đa âm đã tạo ra
những bản fantasia: những bản nhạc phức tạp, rắc rối với nhiều kiểu đối âm mô
phỏng. Yếu tố ngẫu hứng, hiện diện ở một mức độ nào đó trong hầu hết các bản nhạc
lute, đặc biệt rõ ràng trong các bản ricercar đầu tiên (không mô phỏng như những
bản nhạc cùng tên sau này mà hoàn toàn tự do), cũng như trong nhiều dạng kiểu
prelude: prelude, tastar de corde ("thử dây"), v.v… Trong thế kỷ 17,
nhạc cho đàn phím và lute song hành cùng nhau. Đến năm 1700, các nghệ sĩ lute
đã viết những tổ khúc vũ khúc khá giống những tổ khúc của các nhà soạn nhạc cho
đàn phím. Trong suốt lịch sử của mình, lute cũng được sử dụng như một nhạc cụ
hòa tấu - thường xuyên nhất là trong các ca khúc cho giọng hát và lute đặc biệt
phổ biến ở Ý và Anh.
Nhạc cho lute
sớm nhất vẫn còn đến nay là nhạc Ý từ một
bản thảo cuối thế kỷ 15. Đầu thế kỷ 16 chứng kiến các ấn phẩm nhạc cho lute của
Petrucci do Francesco Spinacino xuất bản năm 1507 và của Joan Ambrosio Dalza năm
1508; cùng với tập nhạc gọi là sách nhạc lute của Cpriola(Capirola Lutebook),
nhà quý tộc là nhà soạn nhạc và nghệ sĩ lute,
chúng đại diện cho giai đoạn nhạc lute sớm nhất ở Ý. Nghệ sĩ hàng đầu thế
hệ nghệ sĩ lute Ý tiếp theo là Francesco Canova da Milano (1497–1543), ông được
ghi nhận là một trong những nhà soạn nhạc lute nổi tiếng nhất trong lịch sử. Phần
lớn sáng tác của ông bao gồm các bản fantasia hoặc ricercar, trong đó ông sử dụng
rộng rãi sự mô phỏng và mô tiến vừa mở rộng tầm cữ của nhạc đa âm cho lute. Vào
đầu thế kỷ 17, Johannes Hieronymus Kapsberger (khoảng 1580–1651) và Alessandro
Piccinini (1566–1638) đã cách mạng hóa kỹ thuật của nhạc cụ này và có khả năng Kapsberger
đã có ảnh hưởng đến nhạc đàn phím của Girolamo Frescobaldi, nhà soạn nhạc đàn
phím hàng đầu thời kỳ này.
Nhạc cho
lute của Pháp bắt đầu với các ấn phẩm của Pierre Attaingnant (khoảng 1494 – khoảng
1551) gồm các bản prelude, các vũ khúc và
các bản tab. Đặc biệt quan trọng là nhà soạn nhạc người Ý Albert de Rippe
(1500–1551), người đã làm việc tại Pháp và sáng tác các bản fantasia tượng đa
âm có độ phức tạp đáng kể. Sáng tác của ông đã được xuất bản sau khi mất bởi học
trò của ông, Guillaume de Morlaye (sinh khoảng năm 1510), tuy nhiên, người học
trò này đã không tiếp thu được lối đa âm phức tạp của de Rippe. Nhạc cho lute của
Pháp suy tàn vào nửa sau thế kỷ 16; tuy nhiên, đã có nhiều thay đổi khác nhau cho
nhạc cụ như nâng âm chuẩn, lên dây kiểu mới, v.v.) đã thúc đẩy một sự thay đổi
quan trọng về phong cách dẫn đến phong cách brisé(rải ngắt quãng) nổi tiếng
trong thời kỳ đầu Baroque: kết cấu rải ngắt quãng có ảnh hưởng đến các tổ khúc
của Johann Jakob Froberger. Trường phái Baroque của Pháp được minh họa bằng các
nhà soạn nhạc như Ennemond Gaultier (1575–1651), Denis Gaultier
(1597/1603–1672), François Dufaut (trước năm 1604 – trước năm 1672) và nhiều
người khác. Giai đoạn cuối cùng của nhạc cho lute của Pháp được đại diện bằng
Robert de Visée (khoảng năm 1655–1732/3), nhà soạn nhạc đã viết các tổ khúc
khai thác tối đa tính năng của nhạc cụ.
Lịch sử
nhạc cho lute Đức bắt đầu với Arnolt Schlick (khoảng năm 1460 - sau năm 1521).
Năm 1513 ông đã xuất bản một tuyển tập gồm 14 ca khúc có lute đệm và ba tác phẩm
lute độc tấu cùng các sáng tác cho organ. Ông không phải là nghệ sĩ lute quan
trọng đầu tiên của Đức vì đã có ghi chép rằng Conrad Paumann (khoảng năm 1410 -
1473) là người phát minh ra bản tab kiểu Đức cho lute. Tuy nhiên điều này vẫn
chưa được kiểm chứng và không có sáng tác cho lute nào của Paumann còn tồn tại.
Sau Schlick, một loạt các nhà soạn nhạc đã phát triển nhạc cho lute Đức: Hans
Judenkünig (khoảng 1445/50 – 1526), gia đình Neusidler và đặc biệt là Hans
Neusidler (khoảng 1508/09 – 1563), và những người khác. Trong nửa sau của thế kỷ
16, ký âm tab Đức và nhạc mục của Đức dần
được thay thế bằng ký âm tab Ý và Pháp và nhạc mục quốc tế, và Chiến
tranh Ba mươi năm (1618–1648) đã thực sự làm đình trệ ngành xuất bản trong nửa
thế kỷ. Nhạc Đức cho lute được hồi sinh
muộn hơn nhiều bởi các nhà soạn nhạc như Esaias Reusner (sau 1670). Tuy nhiên,
phong cách Đức rõ rệt chỉ xuất hiện sau năm 1700 trong các tác phẩm của Silvius
Leopold Weiss (1686–1750), một trong những nhà soạn nhạc cho lute vĩ đại nhất.
Một số sáng tác của ông đã được chuyển soạn cho đàn phím bởi không ai khác
ngoài Johann Sebastian Bach (1685–1750), người đã sáng tác một số tác phẩm cho lute,
tuy nhiên không rõ ông thực sự viết chúng cho lute hay một nhạc cụ dây gảy khác
hoặc cho đàn lautenwerck hay lute-harpsichord, một nhạc cụ lai giữa lute và
harpsichord như tên bằng tiếng Anh.
Trong các
nước châu Âu khác, Anh và Tây Ban Nha có vị trí đặc biệt quan trọng. Âm nhạc
Anh viết cho lute chỉ bắt đầu vào khoảng năm 1540, nhưng đất nước này đã sản
sinh ra những nhạc sĩ lute quan trọng, trong đó nổi bật hơn cả là John Dowland (1563–1626). Ảnh hưởng của ông rất
sâu rộng: trong nhiều thập kỷ sau khi ông mất, các chủ đề của ông đã được các nhà soạn nhạc cho đàn phím ở Đức
dùng làm chủ đề cho các biến khúc của họ. Ít nổi tiếng hơn là những tiền bối và
đồng nghiệp của Dowland như Anthony Holborne (khoảng 1545–1602) và Daniel
Bacheler (1572–1619).
Các nhà
soạn nhạc Tây Ban Nha chủ yếu sáng tác cho vihuela, một nhạc cụ dây giống
guitar hiện đại hơn lute nhưng lên dây giống lute. Thể loại sáng tác chính của
họ là các bản fantasia đa âm và differencia - biến khúc. Luys hay Louis Milan
(khoảng 1500 – sau 1560) và Luys de Narváez (khoảng 1526–1549) là hai nhà soạn
nhạc quan trọng vì những đóng góp của họ cho sự phát triển của nhạc cụ đa âm ở
Tây Ban Nha. Các biến khúc của Luys de Narváez là những biến khúc đầu tiên được
xuất bản trong lịch sử, các chỉ dẫn về nhịp độ(tempo) trong bản nhạc của Louis Milan là những chỉ dẫn về nhịp độ đầu
tiên trong lịch sử.
Cuối
cùng, có lẽ nhà soạn nhạc châu Âu cho lute có ảnh hưởng nhất là Bálint Bakfark
người Hungary (khoảng 1526/30–1576), người có những bản fantasia đối âm khó hơn
và chặt chẽ hơn nhiều so với những đồng nghiệp Tây Âu đương thời.
Các tổ
khúc viết cho dàn nhạc nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Ý Ottorino Respighi(1879-1936)
có tên Những Làn điệu và Vũ khúc Cổ(Ancient Airs and Dances) được rút ra từ nhiều
cuốn sách và bài viết về nhạc đàn lute thế kỷ 16 và 17 do nhà âm nhạc học Oscar
Chilesotti(1848-1916) chuyển soạn, bao gồm tám bản nhạc từ tập bản thảo của Đức
Da un Codice Lauten-Buch(sách nhạc cho lute của Codice), hiện thuộc một thư viện
tư nhân ở miền bắc nước Ý.
Sự hồi
sinh và các nhà soạn nhạc cho lute ở thế kỷ 20
Sự hồi
sinh cho đàn lute trong thế kỷ 20 bắt đầu từ công trình tiên phong của Arnold
Dolmetsch (1858–1940); nhà nghiên cứu về âm nhạc và nhạc cụ thời cổ và khởi động
cho trào lưu vì tính chân thực, ví dụ biểu
diên âm nhạc thời kỳ nào thì dùng nhạc cụ
thời đó. Sự hồi sinh của đàn lute đã tạo động lực cho các nhà soạn nhạc sáng
tác những tác phẩm mới cho nó. Một trong những nhà soạn nhạc đầu tiên là Johann
Nepomuk David ở Đức. Nhà soạn nhạc Liên Xô Vladimir Vavilov là người tiên phong trong
phong trào phục hưng đàn lute đồng thời là tác giả của nhiều trò lừa bịp âm nhạc.
Sandor Kallos và Toyohiko Satoh đã áp dụng cách diễn đạt hiện đại vào đàn lute,
Elena Kats-Chernin, Jozef van Wissem và Alexandre Danilevsky dùng cách diễn đạt
tối giản và hậu tối giản, Roman Turovsky-Savchuk, Paulo Galvão, Robert
MacKillop dùng cách diễn đạt lịch sử, và Ronn McFarlane dùng New Age. Trào lưu
tích cực này của các chuyên gia âm nhạc cổ đã truyền cảm hứng cho các nhà soạn
nhạc trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ vào năm 1980, Akira Ifukube, nhà soạn nhạc người Nhật Bản đã viết bản Fantasia
cho đàn lute Baroque bằng ký âm tab lịch sử thay vì ký âm bằng nốt hiện hành.
Các
cách lên dây
Đàn lute có
nhiều kích cỡ khác nhau, số lượng dây-khóa cũng khác nhau và không có tiêu chuẩn
cố định để lên dây. Tuy nhiên, điều sau đây có vẻ đúng với đàn lute thời Phục
hưng.
Một cây
lute Phục hưng tenor 6 dây sẽ được lên dây như một cây viol tenor với các dây
cách nhau quãng bốn đúng tất cả các quãng trừ quãng giữa dây ba và dây bốn là
quãng ba trưởng. Đàn lute tenor thường được lên dây theo danh nghĩa "theo
giọng Sol" (không có chuẩn cao độ nào trước thế kỷ 20), được đặt tên theo
cao độ của dây cao nhất, tạo ra mô hình (GG) (Cc) (FF) (AA) (dd) (g) từ dây trầm
nhất đến dây cao nhất. Khi dùng guitar chơi các bản nhạc cho lute Phục hưng hay
vihuela, các nghệ sĩ guitar thường hạ dây ba của họ xuống nửa cung thành F#.
Đối với
đàn lute có hơn sáu dây, các dây thêm sẽ được lắp vào dải trầm. Do số dây nhiều nên cần đàn rất rộng và khó bịt dây ở ngoài dây thứ sáu. Vì vậy các dây bổ sung thường được lên theo các
cao độ của các dây
trầm thay vì tiếp tục cách quãng bốn, và các dây thấp hơn này thường không
bịt được sau
khi gảy mà vẫn ngân vang nên rất ồn, làm ảnh hưởng xấu đến hòa âm. Do đó, một cây lute tenor Renaissance 8 khóa sẽ được
lên dây theo các cao độ: (D1D) (F1F) (G1G) (Cc) (FF) (AA) (dd) (g), và một
cây lute
10 dây: (C1C) (D1D) (E♭1E♭)
(F1F) (G1G) (Cc) (FF) (AA) (dd) (g).
Tuy nhiên, không có sơ đồ nào trong số này là bắt buộc,
và một nghệ sĩ lute hiện đại đôi khi lên lại dây một hoặc nhiều dây khi chuyển các
bản nhạc. Các bản thảo có hướng dẫn lên dây cho người chơi. Ví dụ, 7e chœur en
fa - "dây thứ bảy lên bằng nốt fa2(là F trong thang âm C chuẩn).
Đầu thế kỷ
17 là thời kỳ phát triển đáng kể của đàn lute, đặc biệt với các sơ đồ lên dây mới
được phát triển ở Pháp. Vào thời điểm này, nghệ sĩ lute người Pháp bắt đầu nhận
ra khả năng biểu đạt của đàn lute khi thử nghiệm các sơ đồ lên dây khác nhau.
Ngày nay, những cách lên dây này thường được gọi là cách lên dây quá độ hoặc Accords
nouveaux (cách lên dây mới). Cách lên dây chuyển tiếp cho thấy quá trình
chuyển đổi từ cách lên dây của thời Phục hưng sang sơ đồ lên dây theo giọng Rê thứ
của thời Baroque được hình thành muộn hơn.
Sự tiến triển
về cách lên dây này được ghi nhận là nhờ các nghệ sĩ lute người Pháp vào đầu thế
kỷ 17, những người đã bắt đầu tăng số lượng quãng ba trưởng hoặc thứ trên các
dây buông cạnh nhau trên đàn lute 10 dây. Kết quả là họ đã nhận ra âm thanh
vang hơn nhờ sự cộng hưởng dao động tăng lên. Điều này dẫn đến nhưng đổi mới
trong phong cách sáng tác và kỹ thuật diễn
tấu, đáng chú ý nhất là Style brisé, tiếng Pháp nghĩa là phong cách ngắt quãng,
là cách chơi rải không đều. Các nguồn bản thảo từ nửa đầu thế kỷ 17 cung cấp bằng
chứng cho thấy cách lên dây quá độ kiểu Pháp đã trở nên phổ biến và được áp dụng
trên khắp lục địa Châu Âu. Các cách lên dây quá độ được sử dụng nhiều nhất
trong thời gian này được gọi là cách lên dây "thăng" và "giáng".
Đọc từ dây thứ mười đến dây đầu tiên trên đàn lute 10 dây, cách lên dây thăng là:
C – D – E – F – G – C – F – A – C – E, còn lên dây giáng là: C – Db – Eb – F –
G – C – F – Ab – C – Eb.
Tuy nhiên
vào khoảng năm 1670, sơ đồ lên dây ngày nay gọi là “sơ đồ Baroque" hoặc
" sơ đồ Rê thứ" đã trở thành chuẩn mực, ít nhất ở Pháp và các nước bắc
và trung Âu. Trong trường hợp này, sáu dây đầu tiên phác họa một hợp âm ba Rê
thứ, và năm đến bảy dây thêm được lên theo các bậc phía dưới. Do đó, cây đàn
lute 13 dây do nhà soạn nhạc Sylvius Leopold Weiss chơi sẽ được lên thành (A2A1) (B2B1) (C1C) (D1D) (E1E) (F1F) (G1G) (A1A1) (DD) (FF) (AA) (d) (f), hoặc với
dấu thăng hoặc giáng ở 7 dây trầm phù hợp với giọng của bản nhạc.
Các nghệ
sĩ lute hiện đại lên dây theo nhiều cao độ chuẩn khác nhau, nốt La từ 392 Hz đến
470 Hz tùy vào kiểu đàn họ đang chơi, nhạc
mục, cao độ của các nhạc cụ khác trong một nhóm hòa tấu và các mục tiêu biểu diễn
khác. Không có nỗ lực nào nhằm tạo ra một cao độ chuẩn có tính phổ quát trong
giai đoạn lịch sử của đàn lute, các tiêu chuẩn thay đổi theo thời gian và địa
điểm.
25/10/2024
Trịnh Minh Cường
Nhận xét
Đăng nhận xét