Chuyển đến nội dung chính

BA GIAO HƯỞNG CUỐI CỦA MOZART

 Do chi tiêu phóng khoáng nên nhà soạn nhạc thính phòng cung đình thường xuyên thiếu tiền. Dù thế nào Mozart luôn phải mặc quần áo đẹp, đặt mua nhiều giày, có ngựa cưỡi, gửi vợ đi an dưỡng vì đau chân ở suối khoáng đắt tiền và cho con học ở trường dành cho con cái nhà quý tộc giàu có. Đến năm 1788 sự mất cân đối thu chi đã trở thành khủng hoảng tài chính thực sự. Nhà soạn nhạc trẻ đã vay mượn tiền từ các nhà bảo trợ bạn bè và còn tìm nguồn vay thêm, thậm chí cầm cố đồ có giá trị. Một loạt thư chỉ xoay quanh chuyện vay tiền từ tháng 6 cho thương gia Michael Puchberg, huynh đệ với nhau trong hội Tam Điểm. Theo đó Mozart cần 4.000 florin và đã nhận được 1.415 trong 15 lần từ 10 đến 300 florin. Đương nhiên Puchberg không chỉ hành động đơn thuần vì tình bạn. Ông là chủ ngân hàng và chuyên xử lý các vấn đề tài chính  bao gồm cả các nhạc sĩ như Mozart, Haydn. Qua thư, Mozart nhấn mạnh anh không mong các khỏan vay không lãi suất mà sẵn sàng trả lãi. Trong lá thư cuối cùng cho Puchberg, nhà soạn nhạc thông báo: trong vài ngày tới Puchberg sẽ nhận được 2.000 florin. Có thể suy đoán rằng vào tháng 6 các khoản nợ Puchberg sẽ được thanh toán, điều này lý giải vì sao Puchberg không nằm trong danh sách chủ nợ sau khi Mozart qua đời. Thành công của vở Don Giovanni với 15 suất diễn ở Vienna trong năm 1788 không duy trì được lâu cho tình hình tài chính của nhà soạn nhạc. Thu nhập của anh lúc này chỉ từ vị trí nhà soạn nhạc thính phòng và từ Hội liên hiệp Kỵ sĩ của Van Swieten nên Mozart phải tìm kiếm giải pháp mới. Thật không may dường như năng lực kinh doanh của anh đã biến mất. Anh đã không thành công với cách quảng cáo lặp đi lặp lại để thu hút những khán giả đặt chỗ trước. Có lẽ quyết tâm xoay chuyển tình thế đã thôi thúc anh sáng tác với tốc độ chóng mặt. Chỉ trong khỏang vài tuần tháng 6 và đầu tháng 7, anh đã hoàn thành Tam tấu Mi trưởng K. 542, Giao hưởng Mi giáng trưởng K. 543, Piano Sonata Đô trưởng K. 545, Violin Sonata Fa trưởng K. 547, Adagio và Fugue cho tứ tấu đàn dây Đô trưởng K. 546. Rồi anh lên kế hoạch cho một chuỗi các buổi hòa nhạc mùa hè, ở Trattnerhof hoặc ở Casino mới của Phillipp Otto ở Spiegelgasse. Có lẽ  ba giao hưởng cuối anh viết cho kế hoạch này. Hẳn là Mozart đã hy vọng hấp dẫn khán giả bằng vốn bài mới đầy tham vọng thay cho các piano concerto vốn là tiết mục chủ lực trong cách buổi hòa nhạc đặt vé trước của mình. Thời gian ghi trên ba bản giao hưởng lần lượt là 26 tháng 6, 25 tháng 7 và 10 tháng 8. Trong khoảng thời gian này, anh còn viết gần như đồng thời các tam tấu piano như Tam tấu piano Mi trưởng K. 542 nhập vào danh mục sáng tác ngày 22 tháng 6,  Đô trưởng K. 548 ngày 14 tháng 7. Có lẽ anh dự định mỗi buổi hòa nhạc sẽ gồm một giao hưởng một tam tấu piano. Ý tưởng lấy giao hưởng làm trọng tâm cho một buổi hòa nhạc đã hình thành từ cuối năm 1786 với Giao hưởng “Prague” K. 504 có lẽ được viết cùng Piano Concerto Đô trưởng K. 503 dành cho chuỗi hòa nhạc Mùa Vọng anh đã lên kế hoạch.

Với ba bản giao hưởng cuối này, Mozart đã tổng kết lại những thành tựu giao hưởng của mình theo một cách khiến chúng ta kinh ngạc và xúc động. Chỉ viết trong vài tuần, anh đã thể hiện năng lực biểu cảm và kỹ thuật của mình bằng cách chinh phục hết đỉnh cao này sang đỉnh cao khác, mỗi đỉnh cao lại mang đến một bức tranh âm nhạc hoàn toàn khác biệt. Trong khi số 40 Xon thứ trở thành bản giao hưởng của kịch tính và niềm đam mê chủ quan, số 41 của sự uy nghi và tính khách quan "kiểu Jupiter", thì số 39 được nhà tiểu luận âm nhạc lỗi lạc người Anh Sir Donald Tovey  mô tả rõ ràng là " tất nhiên, toàn bộ âm nhạc của Mozart đều tràn ngập “âm thanh hay” nhưng có điều gì đó đặc biệt rực rỡ, ấm áp, hấp dẫn một cách vang vọng trong bản giao hưởng Mi giáng trưởng.

1- Giao hưởng số 39 cung Mi giáng trưởng K. 543

1. Adagio, Allegro – 2. Andante con moto – 3. Menuetto: Allegro – 4. Finale: Presto

 Dàn nhạc: 1 flute, 2 clarinet, 2 bassoon, 2 horn, 2 trumpet, timpani và dàn dây.

Điệu thức rất có ý nghĩa: giọng Mi giáng trưởng nổi bật trong Cây sáo thần và các tác phẩm mang hơi hướng Tam điểm khác của Mozart. Bản giao hưởng này có những biểu tượng u ám và sâu thẳm không thể giải thích bằng lời. Trên hết nó hát về vẻ đẹp, âm thanh hoa mỹ, về sự khôn ngoan phải tìm tòi và tìm được. Trong ba bản giao hưởng cuối, số 39 là bản duy nhất bắt đầu bằng một phần giới thiệu. Các yếu tố tĩnh và động cân bằng hoàn hảo trong doạn adagio này: hợp âm chủ nhấn mạnh và hợp âm át được đặt cạnh nhau cùng các đoạn chạy gam xuống và lên, các âm thuận ấm áp nhất được trung hòa bằng một khoảnh khắc bất hòa đột ngột. Một cách chuyển giọng gần như theo phong cách Wagner ẩn chứa bí ẩn, dẫn lối đến cánh cửa mở chào đón phần allegro du dương lượn sóng với nhịp 3/4.

Các đoạn chạy gam tái diễn với ý nghĩa mới; đó cũng là một sự khởi đầu mới mẻ để kết nối phần giới thiệu và phần chính theo cách như vậy. Có sự cân xứng và có quy tắc nhưng không hề gò bó. Sự phát triển ngắn gọn và sắc bén hoàn toàn phù hợp với khung cảnh của nó. Giọng La giáng trưởng ấm áp mở ra không gian âm thanh cho chương chậm  andante (có giai điệu chắc chắn Beethoven đã nhớ đến khi viết chương hai của bản Giao hưởng số 5). Chủ đề thứ hai mãnh liệt ở giọng Fa thứ là một bất ngờ, và tái hiện sau đó ở giọng Xi giáng thứ xa xôi càng bất ngờ hơn. Một ý tưởng thứ ba được đưa ra, và các mô típ tiết tấu và giai điệu của phần mở đầu bao trùm toàn bộ kết cấu. Một thế giới nội tâm phong phú và tinh tế mở ra trước chúng ta.

Chương menuetto là một vũ khúc giao hưởng, không phải một vũ khúc trịnh trọng và điệu đà thường thấy; nó cũng không có dấu vết của những chương minuet mộc mạc mà Haydn thích viết. Phần trio ngọt ngào với sự yên bình đồng quê được thể hiện bằng một kiểu chuyển giọng đặc sắc và trau chuốt.. Bè clarinet 1 hát giai điệu, bè clarinet 2 đệm rải theo. (Không có những tiếng kèn oboe lanh lảnh trong bản giao hưởng có tông ấm áp này). Chương kết, lại là allegro, là cuộc vui cuồng nhiệt không thể cưỡng lại dựa trên âm hình chủ đề nhỏ bé của phần mở đầu, giống như một tên lửa vạch ra vệt sáng. Tuy nhiên, hành trình của nó không thể dự đoán trước, đưa chúng ta đi qua một quỹ đạo tuyệt vời của các cung điệu trước khi hạ cánh an toàn để tái hiện chủ đề chính. Với ngòi bút tinh tế nhất, nhà soạn nhạc thỉnh thoảng chia chủ đề giữa các nhạc cụ, tạo nên những kết cấu dí dỏm. Chương kết này có thể làm chúng ta nhớ đến chương kết trong bản giao hưởng số 99 Mi giáng trưởng của Haydn tuy mỗi bậc thầy có cá tính khác nhau rõ rệt.

Tác phẩm do nhạc trưởng lừng danh L Bernstein cùng dàn nhạc Wienna Philharmoniker trình tấu:

 https://youtu.be/YDDf0P2G44I?si=4RftaEdcBrkIqNBv

 

2- Giao hưởng số 40 cung Xon thứ K. 550

1. Molto allegro – 2. Andante – 3. Menuetto: Allegretto – 4. Allegro assai

Dàn nhạc: 1 flute, 2 oboe, 2 clarinette, 2 horn và dàn dây.

Từ Giao hưởng số 39, Mozart đã bước tiếp một bước vào một thế giới biểu cảm hoàn toàn khác. Giao hưởng Xon thứ không phải là một tác phẩm theo kiểu sau khi đạt đến một mức độ đam mê nào đó rồi chìm vào giải trí thú vị. Từ đầu đến cuối, đây là một tác phẩm phức tạp đầy tính và cực kỳ nghiêm túc có thể khiến chúng ta chỉ mỉm cười thoáng qua nhưng rồi khó có được cảm giác vui vẻ. Chất liệu âm nhạc của phần mở đầu trong Giao hưởng Xon thứ đáng nhớ đến mức nếu mô tả nó sẽ thành vô nghĩa. Những giai điệu như vậy không quá nhiều mà chúng chỉ là những nhạc tố, hạt giống, khuôn mẫu được xây dựng trên tiết tấu ấn tượng nhất. Điều quan trọng nhất ở nhạc tố mở đầu là hình tượng nhỏ lạc quan bắt đầu nó rồi từ đó thế giới được xây dựng. Chủ đề phụ ít nhẹ nhàng hơn nhưng không có nghĩa là thoải mái. Quá trình chuyển sang giai đoạn phát triển có tính chất quyết đoán đặc trưng ​​​​và những thay đổi âm sắc tiếp theo mang tính tự do và táo bạo đáng kinh ngạc. Chủ nghĩa lãng mạn của Mozart không bao giờ buông thả; một cảm giác điều độ cổ điển, đúng là kiểu Hy Lạp, thấm đẫm tất cả. Đó cũng là một ý tưởng nhịp nhàng mang theo dòng chảy của chương chậm tuyệt vời - Andante  Mi giáng trưởng. Theo thời gian, chúng ta sẽ cảm nhận được một cảm giác chuyển động không thể lay chuyển, không khác gì chương chậm trong Giao hưởng thứ tư của Beethoven với “nhịp tim” không ngừng nghỉ. Trong phần tóm tắt, nhạc tố tiết tấu đang dẫn dắt và chủ đề chính được kết hợp theo cách có thể gọi là tiền định. Theo truyền thống cổ điển Minuet là một điệu nhảy cung đình, nhưng truyền thống lâu đời đó hầu như bị bỏ rơi trong chương thứ ba của bản giao hưởng này. Ở đây, vẫn có giọng Xon thứ,  tất cả đều mang tính biểu đạt sâu sắc, kịch tính, thậm chí nghiệt ngã. Phần trio chuyển sang Xon trưởng mang đến cảm giác thực sự nhẹ nhàng duy nhất trong cả bản giao hưởng rồi Menuetto không khoan nhượng tái diễn. Chương kết cất cánh như một quả tên lửa và nhanh chóng đẩy chúng ta vào nơi dường như là một không gian âm nhạc bên ngoài. Đoạn mở đầu của phần phát triển là đoạn táo bạo nhất của Mozart, nó gần như là một chủ đề 12 âm. Đó là đoạn của bè kèn gỗ mô tả một hàng 12 âm thực sự, một chuỗi các hợp âm ba bốn nốt trong các quãng tăng dần. Sự kết hợp đa âm có độ phức tạp đặc biệt nhưng đồng thời cũng có sức mạnh biểu cảm. Không kém phần đặc biệt so với chất liệu chủ đề chính là chủ đề phụ xuất hiện tám lần: bốn lần giọng trưởng và bốn lần ở giọng thứ, mỗi lần là một biến khúc tinh tế của lần trước. Phần kết thúc rất khốc liệt, hoàn toàn không hề nhượng bộ một chút nào cho những hy vọng vào những kết thúc có hậu.

Vẫn là L Bernstein và dàn nhạc Wienna Philharmoniker trình tấu tác phẩm

https://youtu.be/p8bZ7vm4_6M?si=1n6UOBgrR_pc_kt9

 

3- Giao hưởng số 41 cung Đô trưởng, K. 551 “Jupiter”

1. Allegro vivace – 2. Andante cantabile – 3. Menuetto: Allegretto – 4. Molto allegro

Dàn nhạc: 1 flute, 2 oboe, 2 bassoon, 2 horn, 2 trumpet, timpani và dàn dây.

Khi hoàn thành ba bản giao hưởng này Mozart mới 32 tuổi nên anh không có lý do gì để nghĩ đây là ba giao hưởng cuối cùng của mình. Anh sẽ còn ngạc nhiên hơn nếu biết rằng bản Giao hưởng Đô trưởng của mình sẽ được hậu thế biết đến với tên "Jupiter". Theo người con út Franz Mozart của nhà soạn nhạc, biệt danh Jupiter do Johann Peter Salomon đặt. Biệt danh này cũng do Johann Baptist Cramer, nhà soạn nhạc kiêm nhà xuất bản người Anh sử dụng. Cramer chia sẻ rằng ngay từ những hợp âm đầu tiên, bản giao hưởng số 41 của Mozart đã khiến ông nghĩ đến  thần Jupiter cùng những tiếng sét. Tuy có những quan điểm khác nhau về biệt danh này nhưng nhìn chung nó khá phù hợp. Không sáng tác nào khác của Mozart có thể truyền tải một bầu không khí quyền uy như vậy. Một cảm giác làm chủ hoàn toàn trong việc lựa chọn chất liệu, một sự đối xứng kiểu La Mã gần như kiêu ngạo, thậm chí có khi còn lạnh lẽo như đá cẩm thạch. Mozart đã mang đến cho chúng ta một kiểu âm nhạc gần như trái ngược với Giao hưởng Xon thứ trước đó. Chính trong tác phẩm này, anh đã đánh bại thế giới tàn khốc, thiếu suy nghĩ anh đang sống. Chương mở đầu của bản Giao hưởng này như một màn opera, thậm chí có thể là cả một vở kịch không lời. Chủ đề của phần mở đầu là sự giới thiệu các nhân vật được khắc họa sắc nét không thể nhầm lẫn bước lên sân khấu: đầu tiên là nhân vật nam cứng rắn, độc đoán. Nhân vật thứ hai ở giọng Xon trưởng là một đối trọng nữ tính, có thể là nữ bá tước dịu dàng và duyên dáng nếu bạn muốn. Và chúng ta sẽ sớm phát hiện giữa họ có xung đột. Nhân vật thứ ba trong số các nhân vật chính, một chủ đề violin tinh nghịch trên nền những nốt trầm, là một nhân vật hài hước, một vai trâu. Mozart đã tạo anh ta từ một aria cho giọng nam trầm trong một vở opera hài(K. 541) anh mới viết vài tháng trước. Và câu chuyện sẽ diễn ra với nhiều kịch tính rắc rối trong suốt quá trình phát triển từ Xon trưởng đến Mi giáng trưởng.  Việc một bản giao hưởng cổ điển về bản chất là một hình thức kịch đã được khẳng định một cách xuất sắc trong chương mở đầu này. Chương chậm tuyệt vời hiển nhiên sẽ là hình mẫu cho Beethoven. Có một bầu không khí u ám có phần đáng sợ được gợi lên bởi những tiếng violin và viola luôn bị ngắt tiếng. Một chủ đề xen vào giữa chủ đề thứ nhất và thứ hai rồi đưa chúng ta đến một khung cảnh đầy kịch tính của xung đột nội tâm, thấm thía và biểu cảm. Có những âm tô điểm, phần mở rộng, những tiếng vọng của những gì đã có và những yếu tố mâu thuẫn. Nhìn chung, đây là một tác phẩm chứa đầy sự sâu sắc và ý nghĩa, bỏ xa mọi cảm giác giải trí tầm thường. Chương Menuetto và Trio đặc biệt dung dị, như những giây phút nghỉ ngơi trước chương kết đặc biệt. Chương Menuetto quý phái biết bao, nó chảy vào phần giữa tuyệt vời làm sao! Và không thể ngẫu nhiên mà chủ đề của chương kết lại được báo trước trong phần hai của Trio, một dự báo về điều kỳ diệu sắp xảy ra. Tất cả những gì Mozart biết về đa âm, cách dệt tấm thảm bằng kết cấu đối âm, đều được tóm tắt trong những trang nhạc đáng tự hào của chương kết. Nó không phải là một fugue mà một chuỗi các fugato(fugue nhỏ) liên tục, một trò chơi ngoạn mục với một loạt chủ đề linh hoạt, không dưới năm chủ đề.  Đoạn đầu tiên trong số này, một đoạn phụng vụ cổ thường được ông sử dụng trước đây (và cả Haydn), đã châm ngòi cho một trong những đám cháy phức tạp nhất trong văn học âm nhạc, bùng cháy ở nhiệt độ trắng. Phải đến chương đầu tiên của bản nhạc thứ chín của Beethoven (mà nó báo trước) mới có một tác phẩm khác có động lực và sự hùng vĩ tương đương.  Ở chơng kết, Mozart cho chúng ta thấy cách có thể thực hiện được điều không thể: tạm dừng trong giây lát và sau đó tất cả năm mô típ chính được kết hợp trong một thiết kế có sức mạnh tích lũy sánh ngang với các tác phẩm của Bach. Trên thực tế, Bach và Handel, những nhà đối âm vĩ đại của thời đại trước, đã in sâu trong tâm trí Mozart khi anh viết nên đoạn kết đáng kinh ngạc này. Học giả người Pháp Georges de Saint-Foix nhận thấy trong đó "một 'bản hợp xướng' khí nhạc rộng lớn nhìn thấy âm nhạc cũ đột nhiên hồi sinh, hợp nhất với âm nhạc mới để chào đón tương lai."

Trình tấu tác phẩm: vẫn là dàn nhạc Wienna Philharmoniker nhưng cùng nhạc trưởng Zubin Mehta

https://youtu.be/ZEg5oWj0dJQ?si=itr0ZErgBxqrRf9s



17/6/2024

Trịnh Minh Cường

Tổng hợp từ: internet, bài viết của Klaus G. Roy trong bộ đĩa Mozart The Late Symphonies của hãng Time Life, cuốn Mozart của M Salomon.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...