Ký ức xa nhất trong tuổi thơ của tôi là khoảng thời gian ở trong quê với bà ngoại cùng các anh chị em trong họ ngoại. Giờ gọi là quê nghe có vẻ xa nhưng quê tôi ở phố Quan Nhân ngày nay. Thời còn tàu điện thì từ Bờ Hồ đến đây thực sự không gần. Cả hai họ nội ngoại của tôi đều gốc gác ở làng Mọc Chính Kinh. Họ nội đã chuyển ra phố từ đầu thế kỷ 20 nên về quê với chúng tôi là về nhà bà ngoại. Những năm trước 1980 thôn Cự Chính, làng Mọc Chính Kinh, vẫn là làng quê thực sự với ruộng đồng ao chuôm. Nhà bà ngoại ở đối diện trụ sở Công an phường Nhân Chính hiện nay. Nhà có đủ ao, vườn, hàng rào cây và cổng đặc trưng ở các làng quê Việt. Cổng xây theo lối truyền thống với cửa gỗ mộc mạc và mái vòm nhỏ xây gạch cuốn với một chút hoa văn trang trí. Một ký ức xa nhất của tôi gắn với cổng này khi bà dắt tôi đi chơi đâu đó về. Khi đến cổng bà bị trúng quả bóng của đám thanh niên đang đá với nhau gần đó. Bà nhổ miếng trầu đang nhai rồi chửi chúng bằng những câu chửi đúng kiểu cổ truyền. Miếng trầu đỏ quạch làm tôi sợ cứng cả người vì nghĩ bà bị chảy máu. Qua cổng là vườn trước và ao chung với nhà hàng xóm. Lối đi từ cổng lát gạch thẻ dẫn đến nền nhà cũ cao chừng 2 m. Trước kia nhà chính của ông bà ngoại tôi ở trên đó. Khi kháng chiến chống Pháp nổ ra, thực hiện tiêu thổ kháng chiến ông đã cho phá căn nhà đó và dọn xuống ở nhà thờ. Đó là căn nhà ngói 2 gian có hè rộng lát gạch hoa. Ông là tham lục lộ( kiểu như trưởng ban quản lý dự án giao thông bây giờ) thường đi làm ở các tỉnh xa. Chắc vì vậy mà ông có thêm bà Hai ở Hải Phòng. Mẹ kể vào đầu một năm, một thầy xem tử vi đã phán năm đó ông sẽ gặp đại hạn ở ngoài đường và khuyên ông đừng đi đâu. Ông nghe theo và ở nhà cả năm. Ngày cuối cùng tháng 11 âm lịch, ông chợt thấy bồn chồn về ruộng đồng nên quyết định đi thăm đồng. Không may ông gặp đám lính Tây đi càn xả súng và ông đã mãi mãi nằm xuống cánh đồng của mình.
Khi không quân Mỹ không kích miền Bắc, mẹ và các cô chú
bác gửi hết trẻ con về ở với bà ngoại. Tổng cộng ngót nghét chục đứa vừa xinh một
tiểu đội. Từ năm 1968 về sau có thêm mấy đứa mới sinh. Con số đó đủ thấy bà ngoại
không phải chỉ có hai tay. Cũng phải kể đến một cánh tay của bà là chú Hùng khi
đó còn là thanh niên. Chú và chú An cháu ruột ông ngoại là hai chỉ huy tiểu đội
trong các hoạt động ngoài trời . Trong họ nhà tôi cả nội lẫn ngoại đều gọi em của
bố và mẹ là chú và cô chứ không phân biệt chú và cậu, cô và dì. Mỗi khi còi báo động, mọi người chui hết vào
bể chứa nước mưa để trú. Bể nước có nắp là một hầm trú bom rộng rãi và an toàn
cho bọn trẻ, nghe thấy người lớn nói sợ nhất bom bi. Mấy bà cháu thường ăn cơm
trên hè. Trước khi ăn cũng mời nhau như mọi nhà. Mẹ kể thời xưa nhà đông người,
đầu bữa ăn lần lượt từng đứa trẻ phải mời tất cả người lớn “ Con mời cậu xơi
cơm, con mời mợ xơi cơm, con mời bác xơi cơm, con mời chú xơi cơm ….”. Dần dần
nói nhanh thành “ cậu cơm, mợ cơm, bác cơm, chú cơm ….”. Một số bài học đầu đời
của chúng tôi bắt đầu ở những bữa cơm. Khi một đứa đang gắp gì đó, đứa khác
vươn tay phía trên tay nó để gắp thì lập tức bà sẽ quát đứa gắp trước: Mày hất
văng đũa nó ra ngoài sân cho bà ! Chan canh ngập quá chỗ cơm trong bát bà sẽ mắng:
Mày chan ngập đến dái thế thì lội thế nào hở cháu! Những bài học rất dân dã của
bà vẫn là đề tài đầy hứng thú mỗi khi chúng tôi có dịp ôn lại thời thơ ấu.
Buổi tối cả tiểu đội ngồi quanh bàn dưới ngọn đèn dầu
leo lét. Vừa nghe bà kể chuyện vừa nghe ngóng tiếng “bộp” ngoài sân. Đó là tiếng
một quả hồng xiêm chín bị rơi xuống sân do bị dơi ăn. Hầu hết vẫn còn nguyên vẹn
có lẽ vì lũ dơi khôn ngoan chỉ chọn quả vừa chín. Bà gọt vỏ rồi bổ nhỏ cho mỗi
đứa một miếng. Số quả do lũ dơi cung ứng chẳng thấp tháp gì so với nhu cầu của
tiểu đội. Tôi thèm quá cứ lén nhặt vỏ nhấm nháp. Hoá ra tôi có duyên với Thực
dưỡng Ohsawa từ khi đó. Quan điểm của Thực dưỡng Ohsawa là ăn hết mọi bộ phận của
cây cỏ do thiên nhiên tạo ra, “ ăn khoai cả vỏ “ ngẫu nhiên là một ví dụ. Loại
quả mà lũ trẻ được ăn thoải mái là dâu gia xoan. Quả này nhiều và chín liên tục.
Mà quả xanh đem chấm muối cũng ngon chán. Ít hơn một chút là roi. Ít vì phải
theo mùa và phải trèo. Cây roi cao nhất vườn nằm sát hàng rào giáp ngoài đường.
Cái giá trả cho những quả roi trắng muốt mát lịm là lông bọ nẹt. Chúng bám đầy
thân cây nên cắm vào tay chân người trèo. Sau khi trèo roi, các anh ngứa lắm. Họ
phải lấy vôi ăn trầu của bà bôi lên chỗ bị lông bám, đợi vôi khô gỡ ra và lông
bọ nẹt sẽ ra theo. Còn ổi, nhãn, na và mít nữa. Nhưng ấn tượng nhất là cây mít
mật ở vườn ngoài. Quả to đến mức phải có các thanh tre làm giá đỡ để không bị
rơi. Mẹ kể có năm quả của cây này nặng hơn tổng trọng lượng của 5 đứa trẻ. Khoảng
thời gian tôi lên cấp 2, mẹ mang từ quê ra những múi mít mật dài bằng gang tay
tôi. Tuy học cấp 2 nhưng gang tay tôi dài như người lớn, bàn tay sinh ra để
chơi đàn mà. Mẹ đem ngâm rượu cho bố và tôi cũng được nếm vài hớp, thơm tuyệt vời!
Trong khoảng thời
gian tôi chưa đi học mẫu giáo, tôi đã thoát chết đuối chỉ trong gang tấc. Như mọi
ngày, đi chợ về bà bảo bọn trẻ đi rửa tay để bà chia kẹo. Cả buổi sáng lũ trẻ
chỉ chờ giây phút này nên cả tiểu đội ào đi rửa tay. Mấy đứa lớn chạy ra ao rửa,
còn mấy đứa bé rửa ở chum nước ngay cạnh bếp. Không hiểu sao hôm đó tôi lại
theo các anh chị ra ao. Khi tôi ra đến ao thì các anh chị đã rửa tay xong và chạy
về hết, còn mình tôi đi lò dò xuống từng
bậc cầu ao để rửa tay. Nếu tôi cứ mạnh dạn xuống bậc ngập nước mà rửa thì không
có chuyện gì xảy ra. Vốn là đứa nhát nên tôi đứng ở bậc sát mé nước rồi chổng
mông lên để cúi xuống rửa tay nên cắm đầu xuống nước. Ký ức của tôi vẫn lưu lại
khoảnh khắc tức thở và nhìn qua làn nước mờ đục. May mà “ Tất cả đã nhận kẹo rồi
mà chẳng thấy thằng Giai đâu. Thế là bà chạy trước, Quân chạy sau ra ao vớt nó
lên”, sau bà kể lại thế, Giai là tên ở nhà của tôi, Quân là em họ hơn tôi 4 tuổi.
Vào đến sân tôi nôn thốc nôn tháo nước ao đã uống đầy bụng.
Thời gian sau đứa nào về nhà đấy, chủ nhật hàng tuần tiểu
đội lại tập hợp. Mẹ đưa chúng tôi về quê bằng tàu điện. Quãng đường Bờ Hồ - chợ
Xanh có 6 km sao mà xa lắc. Mẹ hay mang theo bánh mỳ để làm quà. Khi đó bánh mỳ
chỉ phổ biến trên phố, trong quê bánh mỳ như một đặc sản. Tiểu đội chơi thành từng
nhóm theo lứa tuổi và giới tính. Các anh đi trèo roi, chặt cành ổi làm súng cao
su và quay và đi chơi với mấy anh em họ hay các bạn trong làng. Tôi nhát và yếu
không leo trèo được nên chỉ chơi với bọn con gái hoặc tha thẩn chơi một mình.
Loanh quanh ra ao đình theo bờ ao qua vài nhà rồi lại về cổng sau. Vườn sau rộng
hơn vườn trước nhiều nhưng cũng chỉ có ít cây ổi và na. Mẹ kể trước kia trồng
nhiều cam. Cũng có khi tôi bắt được con săn sắt ở mương đem về cho chọi với cá
chọi. Chú chọi ta đang ra oai vè thì săn sắt bổ luôn một đòn làm chọi chạy thẳng. Cũng có lúc thằng Mỹ là em bằng tuổi chịu
chơi với tôi. Nó khoẻ, nhanh nhẹn hơn và rất dũng cảm nên thường được các anh
cho đi theo. Nó là con chú Đức cô Anh. Hai cường quốc đặt tên ba con cũng bằng
các cường quốc: Mỹ, Nga và Nhật. Chú Đức là người rất khéo tay dù đã bị cụt
ngón cái và chiều bọn trẻ nên chúng tôi yêu chú lắm. Thấy các anh theo chú Đức
đi chặt ổi đẽo quay, cái Thuỷ(em họ hơn tôi 2 tuổi) léo nhéo: đéo cho em với
nhá ! Nó nói ngọng dấu ngã thành sắc. Thấy không được chú ý nó cứ léo nhéo “Đéo
cho em với nhá” mãi, bà phì cười: Thôi đi, đừng có đéo nữa!
Có dạo bác tôi mua một con ngan trâu to và rất dữ. Nó
nhảy vào bất cứ ai đến gần và mổ một cách hung dữ. Anh Quang hơn tôi 4 tuổi còn
sợ nó huống chi tôi vốn nhát như cáy. Nhưng thằng Mỹ thì khác, nó cứ thản nhiên
đến gần con ngan. Con ngan vừa vươn cổ về phía nó thì nó chộp cổ con ngan và
quay tít rồi thả cho nó văng ra xa. Chỉ cần một lần đủ để nó phải kiềng thằng Mỹ.
Một hôm, tôi và Mỹ đi tìm thanh tre để làm gươm. Hai thằng đấu với nhau một hồi
thì chán và lang thang đi tìm địch. Ra vườn trước thấy đám dọc mùng xanh um,
nhưng tôi nào có biết đó là dọc mùng. Trước đó mới đọc báo viết về cây khoai ngứa
và thấy đám cây này giống ảnh trong bài báo nên tôi bảo Mỹ: địch đây rồi chiến
thôi. Hai thằng nhảy vào tả xung hữu đột, một loáng sau cả vườn dọc mùng đã nằm
la liệt. Bác gái đi làm về thấy vậy kêu toáng lên: Ối giời đất ơi ! Vườn dọc
mùng tao chăm bẵm để ăn Tết mà chúng mày phá hết thế kia! Hai thằng bị một trận
roi quắn đít bằng chính thanh gươm của
mình.
Sau ngày thống nhất, bác tôi đi công tác Sài gòn về với
nhiều thứ làm mọi người loá mắt như tủ lạnh, vô tuyến, suýt vân tơ … Tôi chỉ mê
cái đài mét hai National vì nó phát ra thứ quyến rũ tôi nhất. Những đĩa bác
mang từ Sài gòn ra như Chet Atkins không phải là thứ tôi thích. Những đĩa làm
tôi mê mẩn là những đĩa của chú tôi mang từ Liên Xô về. Lần đầu tiên tôi được
nghe Paul Mauriat. Về sau tôi biết tên hai trong số các bài trong đĩa đó là
Bridge over trouble water của Paul Simon và Let it Be của The Beatles. Tôi đã
đi tìm các CD của P M mà không thấy.
Cách đây mấy năm, một thằng bạn rủ đến nhà nó xem đống đĩa cũ nó vừa mua để xem
thích cái nào thì lấy. Và tôi đã gặp lại chính đĩa đó. Nhưng Paul Mauriat không phải là ấn tượng mạnh
nhất. Phải là các bản valse của Strauss mới làm tôi phấn khích cao độ. Tôi vừa
lầm bầm hát theo vừa đung đưa người khiến các bác các chú rất ngạc nhiên và
khen ngợi. Họ không biết tôi được nghe những bản nhạc đó từ lúc ẵm ngửa nên
chúng đã quá quen thuộc với tôi. Gần đây tôi đã xin bác đĩa này. Nằm trong đống
đồ cũ bao nhiêu năm nhưng đĩa vẫn nghe tốt.
Chúng tôi lớn dần, những dịp tập hợp đủ tiểu đội cũng
thưa đi rồi bà mất. Mọi người cùng chiếc xe đòn kéo tay truyền thống mang linh
cữu bà đến nghĩa trang Quán Dền cách nhà khoảng trên cây số. Hình ảnh đoàn tang
trên con đường đất giữa ruộng lúa là ký ức cuối cùng của tôi về thôn Cự Chính
khi chưa đô thị hoá.
15/3/2019
Trịnh Minh Cường
Nhận xét
Đăng nhận xét