Chuyển đến nội dung chính

NHỮNG LOÀI VẬT TRONG ÂM NHẠC

 

Thiên nhiên là đối tượng quan trọng hàng đầu của các nghệ sĩ. Chúng ta đã biết những hiện tượng thiên nhiên muôn màu muôn vẻ thế nào trong các tác phẩm âm nhạc. Các loài vật lại là một phần không thể thiếu trong thiên nhiên. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những loài vật nào đã lọt vào tác phẩm của các nhà soạn nhạc?

Một loài chim đặc trưng của châu Âu đã trở nên nổi tiếng nhờ một vở ballet của nhà soạn nhạc vĩ đại nhất nước Nga P. I. Tchaikovsky. Nhắc đến đây hẳn ai cũng biết ngay đó là chim thiên nga trong vở Hồ thiên nga rồi. Vở ballet này là câu chuyện tình đầy sóng gió của hoàng tử Siegfried và công chúa Odette, người bị phù thủy biến thành chim thiên nga. Những màn múa đẹp tuyệt vời của cả bầy thiên nga hay của một thiên nga đã đưa vở ballet này trở thành vở ballet được yêu thích nhất.

Không riêng thiên nga, loài chim được các nhà soạn nhạc rất ưu ái. Chúng ta còn gặp nhiều loài chim khác khi thưởng thức các tác phẩm sau:

Khúc hát chim sơn ca(Song of the Lark) - Tháng 3 trong tổ khúc Bốn Mùa viết cho piano solo cũng của P. I. Tchaikovsky. Tổ khúc rất nổi tiếng này gồm 12 khúc nhạc tương ứng với 12 tháng trong năm kèm theo tiêu đề riêng.

Chim sơn ca(The Lark)   – ca khúc nghệ thuật của “cha đẻ âm nhạc Nga” M. Glinka. Vào khoảng năm 1840, Glinka đang hoàn thành opera Cuộc đời Sa Hoàng. Ông thường đi về ngoại ô thư giãn và viết một chùm 12 ca khúc nghệ thuật với tiêu đề Chia tay Saint Petersburg. Nội dung các ca khúc này có liên quan đến những khó khăn ông đang gặp phải như sức khỏe kém, vợ ông bỏ ông kết hôn với người khác. 12 ca khúc gồm: Romance, Hebrew Song, Bolero, Cavatina, Cradle Song, Travelling Song, Fantasia, Barcarolle, The Lark, To Molly, Song of Farewell.

Chim sơn ca bay lên(The Lark Ascending) – tiểu phẩm viết cho violin cùng dàn nhạc của nhà soạn nhạc người Anh Ralph Vaughan Williams(1872-1958). Chim sơn ca bay lên vốn là một bài thơ 122 câu của nhà thơ người Anh George Meredith. Bài thơ đã gây xúc động mạnh cho Williams vốn là người yêu văn thơ từ nhỏ. Và ông đã viết một tiểu phẩm cùng tên cho violin và piano và hoàn thành vào năm 1914. Nhưng tiểu phẩm này không thành công vì không được nghệ sĩ nào biểu diễn. Đến năm 1920, ông đã soạn lại cho violin và dàn nhạc với quy mô lớn hơn và phiên bản mới đã thành công khi được trình tấu lần đầu vào năm 1921. Và tiểu phẩm này đã thành một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Williams.

Những chú chim buồn(Oiseaux Tristes) chương 2 trong tổ khúc Miroirs viết cho piano solo của nhà soạn nhạc người Pháp M. Ravel. Khoảng năm 1900, Ravel tham gia một nhóm các nghệ sĩ trẻ gọi là “Les Apaches” hoặc "những tên côn đồ", một thuật ngữ do Ricardo Viñes, một thành viên trong nhóm, tạo ra để ám  chỉ nhóm của ông gồm "những kẻ bị ruồng bỏ trong nghệ thuật". Khoảng giữa năm 1904-1905, Ravel đã viết Miroirs  gồm 5 chương, mỗi chương đề tặng một thành viên của nhóm, Những chú chim buồn đề tặng Ricardo Viñes, nghệ sĩ piano người Tây Ban Nha.

Chim lửa(The Firebird) –ballet của nhà soạn nhạc người Nga I. Stravinsky. Vở ballet kể câu chuyện về Hoàng  tử Ivan đã bắt được Chim lửa là chim thần. Chim lửa xin Hoàng tử thả rồi sẽ giúp hoàng tử khi chàng gặp khó khăn. Hoàng tử đồng ý thả rồi cùng Chim lửa đi tìm người yêu là một trong 13 nàng công chúa. Chim lửa đã giúp chàng vượt qua nhiều khó khăn để chàng toại nguyện.  

Chim cu(Le Coucou) – tiểu phẩm cho piano solo của nhà soạn nhạc người Pháp Louis-Claude Daquin.

Chim ruồi(El Colibri) – tiểu phẩm cho guitar solo của nhà soạn nhạc người Argentina J. Sagreras.

El Pajarito(Chú chim nhỏ) – tiểu phẩm cho violin của nhà soạn nhạc người Canada gốc Nga Sophie-Carmen Eckhardt-Gramatté.

Danh mục các loài chim(Catalogue d'oiseaux) của nhà soạn nhạc người Pháp Olivier Messiaen. Ông còn là nhà điểu học và ông đã lập một danh mục tiếng hót của các loài chim qua âm thanh của cây đàn piano – Danh mục các loài chim. Tác phẩm này gồm 13 chương thể hiện tiếng hót của 13 loài chim: quạ chân đỏ, vàng anh, hét đá xanh, bạc bụng tai đen, cú, chiền chiện nhỏ, chích nhỏ, sơn ca mỏ ngắn, chích nâu, hét đá thường, ó thường, bạc bụng đen, mỏ nhác.

Chúng ta sẽ gặp mèo, chim và vịt đã giúp cậu bé Peter thoát khỏi nanh vuốt của chó sói khi thưởng thức vở ballet Peter và Chó sói của nhà soạn nhạc người Nga S. Prokofiev. 

Nhiều loài vật cùng xuất hiện trong tổ khúc Lễ hội Muông thú của nhà soạn nhạc người Pháp Saint-Saens. Tổ khúc này gồm 14 chương viết cho 2  piano và hòa tấu thính phòng. Mỗi chương là một cách hòa tấu thể hiện rất ngộ nghĩnh một loài vật như voi, lừa, kăng gu ru, gà và những con chim. Thiên nga là chương thứ 13 viết cho cello và 2 piano. Đây là chương nổi tiếng nhất của tổ khúc này và thường được diễn tấu bằng cello và 1 piano. Giai điệu tuyệt đẹp của bè cello như hình ảnh duyên dáng của thiên nga trên sóng nước lăn tăn của bè piano.

Chúng ta có thể gặp khá nhiều côn trùng khi nghe nhạc:

Bầy ong (The Bumblebee)- khúc chuyển màn trong vở opera Chuyện Vua Saltan của nhà soạn nhạc người Nga  Rimsky-Korsakov. Tác phẩm cho dàn nhạc này được chuyển soạn thành rất nhiều các phiên bản cho các nhạc cụ khác nhau.

Chúng ta cũng gặp ong qua hai tác phẩm viết cho guitar solo:

El Abejorro (Con ong) của nhà soạn nhạc người Tây Ban Nha E. Pujol

Las Abejas(Bầy ong) của nhà soạn nhạc, nghệ sĩ guitar tài năng người Paraguay A. Barrios-Mangore.

Kể cả chưa nghe các bản nhạc về ong này, chúng ta cũng phần nào đoán được đó là những bản nhạc chơi với tốc độ rất nhanh với giai điệu thay đổi trầm bổng liên tục như âm thanh đặc trưng của loài côn trùng này.

Một sự tình cờ thú vị khi cạnh những bản nhạc về loài ong, các nhà soạn nhạc phương Tây còn viết những bản nhạc về loài bướm:

- Con Bướm(Der Schmetterling) D. 633  là một ca khúc của ông Vua ca khúc nghệ thuật F. Schubert.   

- Những con bướm(Papillons Op. 2) của nhà soạn nhạc người Đức R. Schumann. Đây là chương hai trong tổ khúc 12 chương viết từ cảm hứng từ tiểu thuyết Thời đại khó xử của Jean Paul.

- Noctuelles (Những con bướm đêm) là chương 1 trong tổ khúc Miroirs của M. Ravel kể trên. Chương này đề tặng nhà thơ Léon-Paul Fargue.

- Sommerfugl(Con bướm) của nhà soạn nhạc người Na-Uy E. Grỉeg. Đây là một tiểu phẩm trong tập nhạc Các tiểu phẩm trữ tình(Lyric Pieces) của ông. Tập nhạc này gồm 66 tiểu phẩm ngắn viết cho piano được xuất bản thành 10 tập từ năm 1867(Op. 12) đến năm 1901(Op. 71).   

Những ví dụ kể trên cho thấy thế giới các loài vật trong âm nhạc cũng rất phong phú như trong các nghệ thuật khác. Tuy nhiên, không phải tất cả các tác phẩm này đều có tính miêu tả hay mô phỏng các loài vật, có những bản chỉ là cảm xúc của tác giả về con vật đó thể hiện bằng âm nhạc.     

24/4/2022

Đăng trên Tạp chí Âm nhạc số 3/2022

21/1/2025: bổ sung con dơi với vở operetta Con Dơi (Die Fledermaus) của J Strauss II.

Trịnh Minh Cường 


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...