Chuyển đến nội dung chính

KAIKHOSRU SHAPURJI SORABJI

 Kaikhosru Shapurji Sorabji sinh ngày 14 tháng 8 năm 1892 tại Chingford, Essex, Anh. Là con của một kỹ sư xây dựng người Ba tư  theo Bái hỏa giáo và mẹ là người Anh, gần đây người ta mới xác định được bà có mang  dòng máu Sicilia và Tây Ban Nha. Sorabji dành phần lớn cuộc đời ở Anh.

Ngay từ những năm niên thiếu, Sorabji đã bộc lộ niềm đam mê mãnh liệt với những phát triển mới nhất của nền âm nhạc đương đại châu Âu và Nga. Ông luôn tìm mọ cách để có được bản nhạc mới nhất của Mahler, Debussy, Schönberg, Skryabin, Rachmaninov và những nhà soạn nhạc đương và ở một nơi mà hầu hết các sáng tác mới gần như không được biết đến. Với bản tính độc lập và đặc biệt tò mò, có lẽ không ngạc nhiên khi nền giáo dục của Sorabji, cả giáo dục chung và âm nhạc, chủ yếu ở các trường tư, nhất là trong bối cảnh xã hội Anh trước chiến tranh.

 Với một nhà soạn nhạc sung mãn như Sorabji sẽ trở thành thì sự phát triển của ông muộn màng khác thường. Sự háo hức của ông trong việc tiếp cận tất cả các xu hướng mới nhất trong âm nhạc dường như đã loại bỏ khỏi tâm trí ông các ý tưởng sáng tác của riêng mình đến khi bước vào tuổi đôi mươi.

Là bạn tri kỷ của nhà soạn nhạc đồng hương Philip Heseltine(1894-1930) từ năm 1913, Sorabji đã viết thư cho bạn rằng ông đang cân nhắc về sự nghiệp của một nhà phê bình âm nhạc. Tuy nhiên khi bắt tay vào sáng tác, trí tưởng tượng của ông đã bùng nổ và một dòng thác sáng tạo âm nhạc tuôn trào gần như không ngớt đến đầu những năm 1980.

Là một người vô cùng kín tiếng và ghê sợ việc tụ tập công cộng theo bất kỳ hình thức nào, Sorabji rất hiếm biểu diễn các sáng tác cho piano của mình nhưng đã đạt được thành công đáng kể. Đáng chú ý nhất là vào những năm 1930 trong chuỗi hòa nhạc lịch sử của của Erik Chisholm của  Hiệp hội Tích cực Truyền bá Âm nhạc Đương đại  có trụ sở tại Glasgow. Buổi hòa nhạc cuối cùng của Sorabji (năm 1936) có thể trùng với quyết định rút tác phẩm của ông khỏi sân khấu hòa nhạc bằng cách từ chối các buổi công diễn nếu không có sự đồng ý rõ ràng của ông, một bước đi khác thường và dũng cảm dẫn đến sự im lặng gần như hoàn toàn trong gần 40 năm, tuyên bố rằng ông coi chúng không phù hợp với buổi hòa nhạc thông thường và "thà không biểu diễn gì cả còn tốt hơn rất nhiều so với một sự xuyên tạc tục tằn". Mặc dù ông chưa bao giờ thực sự "cấm" rõ ràng đối với các buổi công diễn các sáng tác của mình, nhưng như tuyên bố trên, thính giả giả hòa nhạc trên khắp thế giới gần như không được nghe bất kỳ sán tác nào của ông trong gần bốn thập kỷ. Xét đến những khó khăn khổng lồ liên quan đến việc biểu diễn phần lớn âm nhạc của ông, thì tình trạng đáng tiếc này kéo dài gần như không bị thách thức trong một thời gian dài cũng không có gì bất ngờ.

 Trong những năm tiếp theo, Sorabji làm việc như nhà phê bình cho các tờ The New Age và The New English Weekly đến khi nghỉ hưu vào năm 1945. Ông vẫn tiếp tục sáng tác các bản nhạc giàu cảm xúc và độ phức tạp phi thường, chủ yếu dành cho piano, với tốc độ chóng mặt mà không hề quan tâm đến việc nó có thể đến được tai công chúng hay không. Ông rất khó chịu trước sự can thiệp của những người tò mò hời hợt về bản thân và tác phẩm của mình. Kết quả là, nhiều mục từ điển về ông trong các bộ từ điển âm nhạc lớn đáng chú ý vì sự mâu thuẫn hơn là độ tin cậy của thông tin. Do đó, một số người nhớ về sự tồn tại của ông nhưng lại biết rất ít hoặc không biết gì về những gì ông đang làm và tại sao, họ đã chọn - gần như không thể tránh khỏi - dựng lên những câu chuyện thần thoại và truyền thuyết về ông. Những điều này nói lên nhiều hơn về người tạo ra chúng hơn là về Sorabji. Phải mất nhiều năm để xóa bỏ hình ảnh "Howard Hughes của Âm nhạc" ngớ ngẩn mà một số người vốn quá rảnh đã gán ghép cho ông.

Ông sống lặng lẽ và giản dị ở London, sau đó là vùng Dorset phía Nam, trong sự cô lập do chính mình chọn, không bị xáo động bởi những ồn ào náo nhiệt của giới sản xuất âm nhạc chuyên nghiệp. Ông may mắn có một khoản thu nhập cá nhân nhỏ, cho phép ông sống theo cách này và tập trung vào công việc sáng tác mà không bị cản trở hay quấy rầy.

Từ năm 1976, những nỗ lực tiên phong của nghệ sĩ piano người Nam Phi Yonty Solomon đã bắt đầu thay đổi lịch sử về danh tiếng của Sorabji. Trong một chuỗi buôi độc diễn hoành tráng tại London, ông đã trình diễn lần đầu tiên một số tác phẩm cho piano của Sorabji. Mối quan tâm từ những buổi độc diễn này tạo ra ngày càng lớn mạnh và phát triển kể từ đó. Điều này tất yếu dẫn đến sự quan tâm quốc tế ngày càng tăng đối với âm nhạc của ông. Tiếp nối bước chân tiên phong của Solomon, nhiều nghệ sĩ khác đã trình diễn được ủy quyền, phát sóng và thu âm thương mại, cuối cùng cũng gác lại huyền thoại lâu đời về sự không thể chơi được của âm nhạc Sorabji. Trong điều kiện phù hợp, Sorabji cho phép - thậm chí khuyến khích điều này, một khi ông công nhận sự tồn tại của những nghệ sĩ có khả năng thể hiện tương xứng các sáng tác của mình. Những người am hiểu các tác phẩm cho đàn phím chính của ông không dự đoán những tuyển tập khó khăn đáng sợ như vậy sẽ trở thành "nhạc mục tiêu chuẩn", nhưng trong khi âm nhạc đặt ra những thách thức độc đáo và khó khăn cho các nghệ sĩ biểu diễn, nó lại mang đến sức hút trí tuệ và cảm xúc tức thời cho người nghe.

 Trong thập niên 1980 người ta đã chứng kiến màn ra mắt chính xác và mạnh mẽ đến kinh ngạc của Giao hưởng Organ Số 1 dài hai giờ của Sorabji (1923–24) và màn trình diễn tuyệt vời kéo dài bốn giờ rưỡi của tác phẩm cho piano Opus clavicembalisticum (1929–30) của ông, được coi là đỉnh cao sự nghiệp của John Ogdon. Kể từ đó, nhiều buổi ra mắt quan trọng khác đã diễn ra. Sau khi Sorabji qua đời ở tuổi 96, một loạt các bản thu âm CD bắt đầu xuất hiện, bao gồm cả hai tác phẩm được đề cập ở trên. Tổ chức Lưu trữ Sorabji đã khuyến khích các nghệ sĩ biểu diễn và học giả hàng đầu tạo ra các phiên bản mới tuyệt vời cho các tác phẩm của nhà soạn nhạc từ bản thảo của ông. Các nghệ sĩ quốc tế xuất sắc đã từng biểu diễn, phát sóng và thu âm nhạc của Sorabji bao gồm các nghệ sĩ piano Yonty Solomon, John Ogdon, Marc-André Hamelin, Michael Habermann, Donna Amato, Ronald Stevenson, Geoffrey Douglas Madge, Carlo Grante, Charles Hopkins và Jonathan Powell, nghệ sĩ organ Kevin Bowyer và các nữ soprano Jane Manning, Jo Ann Pickens và Sarah Leonard.

 Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông không chỉ được các nghệ sĩ biểu diễn và truyền thông mà còn bởi ấn phẩm của Sorabji: A Critical Celebration của Scolar Press, một hội thảo đa tác giả do Giáo sư Paul Rapoport biên tập. Cuộc khảo sát toàn diện đầu tiên về Sorabji này đã được tái bản vào năm 1994. Một trong những cộng tác viên của nó, Giáo sư Marc-André Roberge, kể từ đó đã chuẩn bị một nghiên cứu tiểu sử quan trọng về Sorabji; mang tên Opus Sorabjianum và được xuất bản trực tuyến lần đầu tiên vào năm 2013; nó được cập nhật theo thời gian để phản ánh các thông tin mới được phát hiện.

22/7/2024

Trịnh Minh Cường dịch từ sorabji-archive.co.uk

Các album nhạc của ông: https://open.spotify.com/artist/1huHshItOW19mvQYwwrRbq?si=0v2G8YwYSsW16b09xSoHQw

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...