Chuyển đến nội dung chính

DARIUS MILHAUD

 Tại hội thảo Diễn đàn Nhà soạn nhạc, Darius Milhaud(đa-ri-úyt’x mi-lô) từng làm tất cả kinh ngạc. “Một sáng tác của sinh viên vừa được biểu diễn và đã đến lúc thảo luận. Cậu sinh viên tội nghiệp vừa mới né tránh những câu hỏi từ một nhà soạn nhạc hội viên đặc biệt lớn tiếng liên tục hỏi tại sao anh ta lại thế này thế kia, thì đột nhiên có một sự náo động ở một góc phòng, ở đó Milhaud từ từ đứng dậy khỏi chiếc ghế bành sâu. Sự im lặng bao trùm khi các sinh viên chờ đợi lời tuyên bố từ thầy. “Tại sao không?” Milhaud chỉ nói vậy rồi ngồi xuống.

Cách tiếp cận sáng tác “tại sao không” của Milhaud rất tự do theo mọi nghĩa. Ông đã cống hiến cho thế kỷ 20 một số lượng sáng tác cực kỳ phong phú với 443 sáng tác cho dàn nhạc, hòa tấu thính phòng, piano độc tấu và song tấu, opera, đơn ca và hợp xướng, nhạc ballet, sân khấu và điện ảnh. Trong âm nhạc cũng như trong cuộc sống, Milhaud thích thử nghiệm và khám phá đồng thời duy trì trong suốt sự nghiệp lâu dài và tuyệt vời của mình một thái độ không muốn bị ràng buộc bởi truyền thống, bị ảnh hưởng bởi thời trang hoặc bị chỉ trích làm nản lòng. Sinh nhật lần thứ một trăm của Milhaud là thời điểm thích hợp để kỷ niệm những sản phẩm âm nhạc phong phú của ông, vẫn còn mới mẻ nổi bật cho đôi tai.

Những tác phẩm nổi tiếng nhất của Milhaud, các bản nhạc piano Saudades do Brasil và Scaramouche cùng các vở ballet La création du monde và Le boeuf sur le toit, chưa bao giờ rời khỏi nhạc mục. Sự đa dạng và sức sống của chúng có thể thu hút người nghe hiện đại hơn bao giờ hết. Các buổi biểu diễn mới và phát hành lại những tác phẩm này trên đĩa CD làm nổi bật chất trữ tình và chất giọng của Milhaud, niềm yêu thích của ông đối với tiết tấu, giai điệu và màu âm nhạc cụ được chắt lọc từ các nguồn phổ biến và kỳ lạ, phù hợp với khả năng tiếp cận và chủ nghĩa chiết trung mà chúng ta đánh giá cao ngày nay. Các buổi biểu diễn do chính Milhaud chỉ huy hoặc biểu diễn, một tiêu chuẩn để đánh giá những cách diễn tấu sát sao hơn, cũng được phát hành lại trên đĩa.

Darius Milhaud sinh ngày 4 tháng 9 năm 1892 tại Aix-en-Provence, trong gia đình Do Thái có văn hóa và gắn bó đã định cư ở đó ít nhất tám thế kỷ. Là một đứa trẻ nhạy cảm, Milhaud đã dành nhiều giờ đi bộ, giao lưu với phong cảnh đầy cảm xúc đã được nổi tiếng trong các bức tranh của Cézanne. Về sau Milhaud mô tả một cảm giác bán thần bí  ông thường xuyên có ở vùng nông thôn Provence vào ban đêm, đất và trời gửi những tia sáng và chùm năng lượng chồng chéo lên nhau, “cả nghìn bản nhạc đồng thời ùa về phía tôi từ mọi hướng”. Ông coi trải nghiệm này là nguồn gốc của tính đa âm mà sau này sẽ thấm đẫm âm nhạc của mình với những dải âm thanh ngân vang với nhiều tầng lớp .

Tài năng của Milhaud đã bộc lộ ngay từ khi còn nhỏ. Sau khi được học cơ bản, cậu được vào Nhạc viện Paris học với các thầy Dukas và Widor. Việc học của cậu không kéo dài lâu vì cậu bắt đầu sáng tác ra nhiều tác phẩm bằng giọng không thể bắt chước được của mình. Bị từ chối nghĩa vụ quân sự trong Thế chiến thứ nhất vì lý do sức khỏe, trong hai năm Milhaud làm thư ký cho nhà thơ-nhà ngoại giao đáng kính Paul Claudel, lúc đó là đại sứ tại Brazil. Brazil đã trở thành nguồn cảm hứng chỉ đứng sau Provence trong sự phát triển âm nhạc của Milhaud. Sau chiến tranh, anh tham gia vào đời sống nghệ thuật sôi động ở Paris và nhanh chóng kết thân với năm nhà soạn nhạc trẻ khác trong một nhóm nhạc phóng túng có tên Sáu Người. Năm 1925, anh kết hôn với chị họ mình - nữ diễn viên kiêm nhà văn Madeleine Milhaud. Trong suốt quãng đời của họ, Madeleine là một đối tác sáng tạo quý giá và một người bạn đời tận tụy, chăm sóc cho ông trong cuộc đấu tranh kinh niên với căn bệnh viêm khớp dạng thấp đáng ghét.

Buộc phải rời quê hương bởi cuộc xâm lược của Đức Quốc xã, Milhaud và gia đình được chào đón ở Mỹ, nơi ông sẽ có những mối quan hệ cá nhân lâu dài và ảnh hưởng sáng tạo. Ông sớm được nương náu ở Oakland, California, và tham  gia đội ngũ giảng viên của trường đại học Mills College. Là một giáo viên cực kỳ nổi tiếng và có ảnh hưởng, Milhaud luân phiên cư trú một năm tại Mills và một năm tại Nhạc viện Paris trong suốt ba mươi năm cuối đời. Ông cũng thường xuyên tham gia các liên hoan âm nhạc mùa hè tại Aspen và Tanglewood, đồng thời thường xuyên giảng dạy tại Santa Barbara. Một số sinh viên của ông đã thành những nhạc sĩ rất nổi tiếng như William Bolcom, Dave Brubeck, Philip Glass và Steve Reich. Không như nhiều giáo viên cố gắng duy trì phong cách riêng của mình thông qua sinh viên, Milhaud tìm kiếm những phẩm chất tốt nhất mà âm nhạc học trò của mình sở hữu và giúp họ phát huy tối đa sở trường vốn có của mình. Do đó, ảnh hưởng lâu dài của Milhaud đối với sự phát triển của các xu hướng âm nhạc hiện nay được nhận ra rõ ràng hơn, một tinh thần tự do không định cư trong một “trường học”.

Với bản tính xã hội và hợp tác, Milhaud tốt bụng đã chia sẻ những ý tưởng và sự đồng cảm với hầu hết nghệ sĩ trong giới nghệ thuật cùng thời với ông, đó là Satie, Stravinsky, Diaghilev, các thành viên “Sáu Người” đồng chí của ông: Poulenc, Honegger, Auric, Tailleferre và Durey; Paul Hindemith và Kurt Weill; các họa sĩ André Derain, Raoul Dufy và Fernand Léger cùng các nhà văn Gide, Malraux, Desnos, Anouilh và Claudel. Nhưng trong khi Milhaud luôn được các nghệ sĩ đồng nghiệp của mình đánh giá cao thì các nhà phê bình lại thường không coi trọng tác phẩm của ông, và Milhaud lo rằng ông sẽ bị coi là một kẻ tầm thường, chỉ là một kẻ“cưỡi ngựa xem hoa”. Dù kết cấu đa âm của Milhaud rất tinh vi, âm nhạc của ông vẫn tạo nên sức hấp dẫn trực tiếp đến đôi tai và trái tim. Những phẩm chất mà ông tìm kiếm trong công việc của học trò được thể hiện rõ ràng ở chính ông - “sự quyến rũ, vui vẻ và quyết liệt”. Ông cảnh báo các nhà soạn nhạc trẻ chống lại cái mà ông gọi là “phát triển quá mức” nhân danh sự sâu sắc. “Thật sai lầm,” ông nhấn mạnh, “sự sâu sắc của một tác phẩm xuất phát trực tiếp từ sự nhàm chán mà nó tạo ra.”

Milhaud là người sớm ủng hộ Schoenberg với việc trình diễn bản cantata thính phòng Pierrot Lunaire của đồng nghiệp người Áo đầu tiên ở Paris. Tuy nhiên sự thiếu kiên nhẫn suốt đời với các hệ thống và hệ thống chính thống, cũ hay mới, đã khiến ông không thể áp dụng kỹ thuật mười hai âm. Thay vào đó, Milhaud đã phát triển một ngôn ngữ âm nhạc của riêng mình không bao giờ bị che khuất bất kể sự đa dạng gần như vô hạn về tâm trạng và bối cảnh mà ông gợi lên. Những vở ballet và nhạc cho piano của ông lấy cảm hứng từ thời gian ở Brazil và Harlem mang một chất nhạc jazz không thể cưỡng lại. Paris và quê hương Provence của ông được gợi nhớ một cách trìu mến trong một số đoạn nhạc trữ tình hơn của ông. Những bản nhạc kịch tính dữ dội của Milhaud dựa trên các chủ đề từ bi kịch Hy Lạp, những mô tả đầy cảm động về niềm vui gia đình và những bản tưởng niệm đầy xúc động về người đã khuất xuất hiện như một điều bất ngờ giữa sự sôi nổi tràn ngập hầu hết các sáng tác của ông. Trong suốt phạm vi và chiều sâu phi thường trong các sáng tác của Milhaud, giọng điệu riêng biệt của ông vẫn luôn có điệu tính và trực tiếp - thông minh và dễ hiểu ngay cả với những người chưa quen nghe.

Toàn bộ các bản thu âm của ông: https://open.spotify.com/playlist/5wMzi4lNvQ9oiYD4XvAqgE?si=b9c9b64ed9314ac7

25/7/2024

Nhân bắt đầu nghe toàn bộ sáng tác của ông

Trịnh Minh Cường dịch từ DariusMilhaud.com

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...