Chuyển đến nội dung chính

12 BẢN BỐN MÙA QUA CÁC THỜI KỲ ÂM NHẠC

Thiên nhiên luôn là đối tượng hàng đầu của các nghệ sĩ trong đó có các nhà soạn nhạc. Tất cả những gì đẹp nhất của thiên nhiên đều được phản ánh trong các tác phẩm nghệ thuật. Với các nhà soạn nhạc, sự vận động có tính bao trùm của thiên nhiên dường như được ưu ái hơn khi có hàng chục tác phẩm về bốn mùa.

 1. Bốn Mùa của Antonio Vivaldi(1678-1741)

Vivaldi viết Bốn Mùa- Le Quattro Stagioni vào khoảng năm 1720. Tác phẩm này là một chùm 4 violin concerto, mỗi bản đại diện cho một mùa trong năm. Mỗi concerto gồm 3 chương nhanh-chậm-nhanh. Để giúp thính giả cảm nhận được tác phẩm của mình, Antonio Vivaldi đã đưa vào tổng phổ một loạt các bài thơ sonnet minh họa cho mỗi chương. Không có bằng chứng nào để xác định các sonnet này của chính Vivaldi hay của ai khác. Lần đầu tiên trong lịch sử, một tác phẩm âm nhạc được thuyết minh bằng ngôn từ, nhưng không phải là tác phẩm âm nhạc chương trình đầu tiên.

Concerto số 1 cung Mi Trưởng Op. 8, RV 269, "Mùa xuân" (La primavera)

1-Allegro (Nhanh, Mi trưởng)

Thời thanh xuân đang đến với chúng ta.

Những chú chim hát mừng sự trở lại của nàng,

và suối chảy róc rách cùng những làn gió mơn man nhẹ nhàng.

Sấm sét, những báo hiệu của mùa xuân, hãy gầm lên,

phủ lớp áo đen tối của chúng lên thiên đường,

Sau đó, chúng rút đi để lại bình yên,

và những chú chim lại cất lên bài ca quyến rũ.

2 - Largo e pianissimo sempre (Chậm và rất nhẹ nhàng, Đô ♯ thứ)

Trên đồng cỏ đầy hoa

các cành lá xào xạc

chàng chăn dê ngủ say,

chú chó trung thành nằm bên cạnh.

3 - Allegro pastorale (Nhanh kiểu đồng quê, Mi trưởng)

Vang dội âm thanh lễ hội của những chiếc kèn túi mộc mạc,

Tiên nữ và những người chăn cừu nhẹ nhàng nhảy múa

Dưới những tán cây xinh đẹp của mùa xuân.

 

Concerto số 2 cung Sol thứ, Op. 8, RV 315, "Mùa Hè" (L'estate)

1 - Allegro non molto (Không quá nhanh, Sol thứ)

Một mùa khó khăn, bừng sáng bởi mặt trời

Làm con người tiều tụy

Làm mòn mỏi cây đàn và thiêu cháy cây thông

Ta nghe thấy giọng chú chim gáy

Rồi những bài hát ngọt ngào của bồ câu và chim sẻ.

Những làn gió nhẹ lay động không gian,

Nhưng đầy đe dọa

Gió Bắc đột ngột quét họ giạt sang

Người chăn cừu run rẩy,

Sợ hãi những cơn bão dữ và định mệnh.

2 - Adagio e piano – Presto e forte (Chậm và nhẹ nhàng-Rất nhanh và mạnh mẽ, Sol thứ)

Nỗi sợ hãi sấm sét dữ dội

Chân tay mệt mỏi được nghỉ ngơi

Khi côn trùng bay vo ve.

3 - Presto (Nhanh, Sol thứ)

Than ôi, anh sợ hãi là phải

Cả trời sấm rền kèm theo mưa đá

Phạt đầu lúa mì và vung vãi cả hạt.

 

Concerto số 3 cung Fa trưởng, Op. 8, RV 293, "Mùa Thu" (L'autunno)

1 - Allegro (Nhanh, Fa trưởng)

Vinh quang thay nhà nông, cùng những các bài ca và điệu múa,

Vui mừng thay một mùa bội thu.

Và đốt lên bởi rượu của thần Bacchus,

Rồi lăn ra ngủ sau cuộc vui.

2 - Adagio molto (Thật chậm, Rê thứ)

Tất cả đều vô tư múa hát

Bầu không khí được hòa quyện niềm vui

Bởi thiên nhiên mời gọi rất nhiều, rất nhiều

Để tận hưởng giấc ngủ ngọt ngào say sưa.

3 - Allegro (Nhanh, Fa trưởng)

Các thợ săn lên đường khi vừa bình minh,

Tù và, chó và súng cùng khởi hành

Thú chạy trốn, thợ săn theo dấu vết

Bọn thú khiếp sợ vì âm thanh rền vang

Của súng và chó, rồi bị thương gục ngã

Hết đường chạy trốn nhanh chóng vào rọ.

 

Concerto số 4 cung Fa thứ, Op. 8, RV 297, "Mùa Đông" (L'inverno)

1 - Allegro non molto (Không quá nhanh, Fa thứ)

Run lên vì lạnh trong tuyết băng,

Trong khắc nghiệt của cơn gió lạnh kinh hoàng;

Vừa chạy, vừa giậm chân,

Răng nghiến răng rắc trong cái lạnh cùng cực

2 - Largo (chậm, Mi giáng trưởng)

Sưởi trước đống lửa bình yên,

Những ngày mãn nguyện

Khi bên ngoài mưa như trút.

3 - Allegro (Nhanh, Fa thứ)

Chúng ta chậm rãi và thận trọng

trên con đường băng giá

đừng để vấp ngã.

Rồi đột ngột quay đầu, trượt chân, và ngã,

Đứng lên và đi qua ngay kẻo băng nứt.

Chúng ta thấy gió Bắc lạnh xuyên qua nhà

Qua cả những cánh cửa đã được vít chặt

Dù đang là mùa đông,

Vẫn có những thú vị riêng.

https://open.spotify.com/album/5tgFFNHTrkzpihDgYvpXEL?si=iRWO-sn_Q6-EhzpRM4BKjQ

2. Bốn Mùa  của J Boismortier (1689–1755)

Joseph Bodin de Boismortier là một nhà soạn nhạc người Pháp tài năng và sáng tác khỏe thuộc thời Baroque. Ông là một trong số ít nhà soạn nhạc trong thế kỷ XVIII có thể sống sung túc nhờ việc tự xuất bản sáng tác của mình mà không cần sự bảo trợ của giới quý tộc nhà giàu. Âm nhạc của ông nổi tiếng vì sự nhẹ nhàng, duyên dáng, dễ tiếp cận và rất được giới thượng lưu Paris ưa chuộng. Ông là một trong những nhà soạn nhạc Pháp đầu tiên sử dụng hình thức concerto Ý. Tác phẩm Bốn Mùa của ông - Les Quatre Saisons, Op. 5 -  là một chùm bốn bản cantata thế tục, mỗi bản dành cho một mùa và phối bè khác nhau.

Le Printemps (Mùa Xuân)  thường dành cho giọng soprano, violin hoặc flute và bè trầm continuo.

L'Été (Mùa Hè) thường dành cho giọng tenor và bè trầm continuo.

L'Automne (Mùa Thu) thường dành cho giọng bass, flute hoặc violin và bè trầm continuo.

L'Hiver (Mùa Đông) thường dành cho giọng soprano, flute, hai violin, viola da gamba và bè trầm continuo.

https://open.spotify.com/album/4SRVOz0jCwqA6Marxy3XcZ?si=632EEEceR-O242Z5MdALLw

 

3.       Bốn Mùa của Louis Lemaire (1693(4)-1750)

Louis Lemaire cũng là nhà soạn nhạc người Pháp và cũng sáng tác bốn chùm bốn cantata cho bốn mùa như Boismortier. Ông là ca sĩ hát thánh ca tại Nhà thờ Meaux nơi ông theo học nghệ sĩ organ Sebastien de Brossard. Sau khi định cư tại Paris, ông đã khẳng định mình là nhà soạn nhạc nhạc thánh hàng đầu và thường xuyên có sáng tác được biểu diễn. Trong số các tác phẩm thành công nhất của ông có chùm bốn cantata Bốn Mùa(1724), và hai tập motet cùng một số sáng tác khí nhạc. Rất tiếc nhiều sáng tác của ông trong đó có bộ Bốn Mùa đã không còn đến ngày nay. 

4. Bốn Mùa của John Christopher Smith Con (1712–1795)

John Christopher Smith Con là một nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức. Ông nổi tiếng nhất với vai trò là người thư ký, quản lý và là người kế nhiệm Georg Friedrich Händel vĩ đại. Phần lớn cuộc đời ông gắn bó với bậc thầy nên sáng tác của ông chịu ảnh hưởng lớn từ thầy mình như là một tất yếu. Smith Con sáng tác oratorio "The Seasons"(Bốn Mùa) vào năm 1757 với lời dựa trên trường ca cùng tên của nhà thơ người Scotland James Thomson.

https://open.spotify.com/album/1KC1FFlHafGmgXu9T0S7RN?si=m4Je3SfnQmqRujxdxQX7ew

 

5.       Bốn Mùa của Franz Joseph Haydn(1732-1809)

Nguyên tác là Die Jahreszeiten, Hob. XXI:3. Đây là một oratorio thế tục hiếm hoi ở thời cổ điển về trước. Sau thành công rực rữ của oratorio Sáng Thế Ký năm 1798, Haydn tiếp tục viết oratorio Bốn Mùa và tác phẩm được trình diễn lần đầu vào năm 1801. Người viết libretto cho Bốn Mùa là Nam tước Gottfried van Swieten(1733-1803). Van Swieten là quan chức ngoại giao Áo gốc Hà lan vốn là nhạc sĩ nghiệp dư rất đam mê âm nhạc. Ông đã sáng tác 3 vở opera hài và 10 giao hưởng nhưng chỉ còn bảy giao hưởng tồn tại đến nay. Đó cũng là một thành công lớn với một nhà soạn nhạc nghiệp dư. Tuy nhiên, ông được nhớ đến nhiều hơn trên cương vị người cộng tác và nhà bảo trợ của các nhà soạn nhạc lớn như Haydn, Mozart và Beethoven. Vào 1 giờ sáng ngày 5 tháng 12 năm 1791 Mozart trút hơi thở cuối cùng. Swieten đã có mặt tại nhà Mozart là người tổ chức đám tang cho thiên tài yểu mệnh. Sau đó hai năm, ông đã tổ chức buổi hòa nhạc cho Requiem của Mozart và thu được 300 ducat, một khoản tiền khá lớn, dành cho góa phụ Constanza của tác giả. Ông cũng là bạn thân và nhà bảo trợ cho Beethoven trẻ tuổi và được Beethoven đề tặng giao hưởng đầu tiên. Và cũng chính Swieten đã viết libretto cho oratorio Sáng Thế Ký. Van Swieten viết libretto Bốn Mùa dựa trên trường ca Bốn Mùa của nhà thơ người Anh James Thomson (1700–1748) xuất bản năm 1730. Oratorio này gồm 4 phần: Xuân-Hạ-Thu-Đông viết cho ba giọng solo: soprano-Hanna, tenor-Lucas, bass-Simon cùng dàn hợp xướng và dàn nhạc.

Mùa Xuân mở đầu bằng những lời chào đón của các nhân vật qua các recitativo, aria, hợp ca và hợp xướng. Họ ca ngợi và tỏ lòng biết ơn những làn gió, cơn mưa tắm rửa cho trái đất. Họ ca ngợi cái đẹp của thiên nhiên vạn vật cùng lời tạ ơn đấng Tạo hóa.

Mùa Hè  mở đầu bằng những miêu tả buổi sáng ngày mới của ba nhân vật rồi họ cùng nhau hát ngợi ca mặt trời. Nhưng nắng cũng làm vạn vật khô cằn: “Tự nhiên kiệt sức chìm xuống nghỉ ngơi; hoa héo, đồng cỏ khô cằn, đài phun khát nước”. Và rồi một cơn bão kéo đến với những cuộn mây đen cùng sấm sét. Thính giả sẽ nghe thấy một cơn bão đang đến tương tự như cơn bão ở chương 4 trong giao hưởng Đồng nội của L. Van Beethoven. Mùa Hè kết thúc bằng một hợp xướng ca ngợi vẻ đẹp thanh bình của đồng quê lúc cuối ngày.

Mùa Thu  là lúc nhà nông thu hoạch thành quả sau những ngày lao động vất vả dưới mưa nắng. Các nhân vật hân hoan hát về những thành quả đó rồi cùng nhau ca ngợi sự cần cù: “Ngôi nhà tranh nơi chúng ta ở; Quần áo mà chúng ta mặc; Sản phẩm mà chúng ta ăn. Đó là những món quà được bạn ban tặng, hỡi những người chăm chỉ! Hỡi những người chăm chỉ trung thực!”. Haydn tâm sự rằng trong cả quãng đời cần mẫn của mình, lần đầu tiên ông được yêu cầu viết một hợp xướng ca ngợi tính cần cù.

Mùa Đông là mùa khắc nghiệt nhất trong năm “Nhìn kìa, mùa đông đang đến để cai trị, nào hơi nước, nào mây, nào bão. Sương mù dày đặc tràn xuống sườn núi, và nuốt chửng cả vùng đồng bằng khô cằn. Giữa trưa mà mặt trời buông thấp mà những tia sáng vẫn yếu ớt. Những cơn cuồng phong lao tới từ Greenland và cực Bắc, nơi Mùa Đông điều khiển triều đình của mình và nay cai quản một nửa địa cầu”. Nhưng rồi mùa Đông cũng qua đi để nhường chỗ cho mùa Xuân mới như trong màn hợp xướng kết đầy lạc quan.  

https://open.spotify.com/album/2ujZzeUX8EVwfMDcZgGAc0?si=1zy_us0GRWOe843bU2Fnug

6. Bốn mùa của Fanny Mendelssohn(1805-1847)

Năm 1839-1840 hai vợ chồng Fanny có chuyến đi du lịch dài ngày tới Ý. Bà đã rất ấn tượng với nghệ thuật và phong cảnh, đặc biệt là ánh sáng của đất nước này. Năm 1841 sau khi trở về nhà, bà sáng tác một chùm 12 tiểu phẩm cho piano mô tả các tháng trong năm với tiêu đề Das Jahr (Năm). Bản nhạc được viết trên những tờ giấy màu và được chồng bà vẽ minh họa và viết một bài thơ ngắn. Nhà văn Kristine Forney đã gợi ý rằng những bài thơ, tranh vẽ trên giấy màu có thể đại diện cho các giai đoạn khác nhau của cuộc sống của vợ chồng họ hoặc của riêng bà.

1.Tháng Một - Ein Traum (Một Giấc Mơ)

2. Tháng Hai – Scherzo sống động vui tươi

3. Tháng Ba - Praeludium und Choral (Prelude và Thánh ca)

4. Tháng Tư - Capriccioso (ngẫu hứng kiểu capriccio)

5. Tháng Năm - Bài ca Mùa Xuân

6. Tháng Sáu – Serenade(dạ khúc)

7. Tháng Bảy - Serenade

8. Tháng Tám – Allegro(nhanh)

9. Tháng Chín - Bên dòng sông

10. Tháng Mười: Allegro con spirito(nhanh có tinh thần)

11. Tháng Mười Một - Mesto (buồn bã)

12. Tháng Mười Hai - Allegro molto (rất nhanh)

13. Postludium (dạo kết) - Choral (thánh ca)

https://open.spotify.com/album/4ziONIT0MotwaAYDGMIxRM?si=nl1SiC2iRZuOAB8EK4vvEw

 

7. Bốn Mùa của Piotr Ilich Tchaikovsky(1840-1893)

         Năm 1875, biên tập viên Nikolai Matveyevich Bernard  từ tạp chí âm nhạc "Nouvellist" ở Saint Petersburg đã đề xuất Tchaikovsky sáng tác mười hai tiểu phẩm cho piano tượng trưng cho mười hai tháng trong năm để xuất bản từng tháng trên tạp chí của mình trong suốt năm 1876. Thông thường Tchaikovsky không thích sáng tác theo đơn đặt viết do áp lực về thời hạn hoàn thành, nhưng vì nể tình Bernard và phần cũng cần tiền nên nhà soạn nhạc đã nhận lời. Và The Seasons Op. 37a (hoặc 37b) đã ra đời. Đây là một tổ khúc 12 chương cho piano, mỗi chương đại diện cho một tháng có tiêu đề riêng và kèm theo một đoạn thơ:

 1. Tháng Một  "Bên Lò Sưởi"  có không khí ấm cúng, trầm tư của mùa đông.

2. Tháng Hai - "Lễ Hội Hóa Trang" (Carnival) sôi động, vui tươi, gợi nhớ các lễ hội mùa đông.

3. Tháng Ba - "Bài Ca Chim Sơn Ca" Trong trẻo tươi tắn báo hiệu mùa xuân sắp về.

4. Tháng Tư - "Hoa Giọt Tuyết" tinh khiết, mong manh, tượng trưng cho những bông hoa đầu tiên khi tuyết tan.

5. Tháng Năm - "Đêm Trắng" gợi hình ảnh những đêm sáng huyền ảođặc trưng của mùa hè phương Bắc.

6. Tháng Sáu - "Khúc Đò Đưa" du dương, mượt mà theo sóng nước.

7. Tháng Bảy - "Bài ca của Người Gặt Lúa" sôi nổi, tràn đầy năng lượng của mùa thu hoạch.

8. Tháng Tám (August) - "Mùa Gặt" mạnh mẽ, rộn ràng.

9. Tháng Chín - "Cuộc Săn" hùng tráng, dồn dập đày hào hứng.

10. Tháng Mười - "Bài Ca Mùa Thu" trầm buồn, lãng mạn

11. Tháng Mười Một - "Trên Xe Tam Mã"  linh hoạt vui vẻ.

12. Tháng Mười Hai - "Giáng Sinh" vui tươi, trang trọng không khí lễ hội.

https://open.spotify.com/album/6MZSBefq1o5qiJTd8usYpa?si=CRVPV6yxRKqo1fSk8gAGXg

8. Bốn Mùa của Isaac Albeniz(1860-1909) -

Nhà soạn nhạc người Tây Ban Nha sáng tác chùm bốn tiểu phẩm cho piano Les Saison vào khoảng năm 1891, mỗi tiểu phẩm là một mùa trong năm với kỹ thuật khá dễ và ngắn:

1- Le Printemps - Mùa Xuân

2. L’Eté - Mùa Hè

3. L’Automne - Mùa Thu)

4. L’Hiver - Mùa Đông

https://open.spotify.com/album/5VNPBghOhFeXuHF0a2KFwW?si=mvSdTB4-TNi67joFBDULWw

9.       Bốn Mùa của Alexander Konstantinovich Glazunov(1865-1936)

A. Glazunov  vừa là nhà soạn nhạc vừa giám đốc Nhạc viện St Petersbourg từ 1905 đến 1928 khi ông rời nước Nga. Vở ballet Bốn Mùa là một trong những tác phẩm nổi nhất của ông. Đây là một vở ballet một màn, bốn cảnh của biên đạo múa Marius Petipa. Glazunov viết phần nhạc vào năm 1899 và vở ballet được trình diễn lần đầu tiên bởi đoàn ballet Imperial Ballet(Nhà hát ballet Mariinsky) vào năm 1900 tại St.Petersburg, Nga. Bốn cảnh của vở diễn tương ứng với bốn mùa Đông-Xuân-Hạ-Thu.

Cảnh 1 - Phong cảnh mùa đông

Mùa Đông được bao quanh bởi những người bạn đồng hành: Sương muối, Băng, Mưa đá và Tuyết, những người thích thú với một dải bông tuyết. Hai con chuột chũi bước vào, và ngay sau đó đốt lên một ngọn lửa khiến tất cả mọi người đều biến mất.

Cảnh 2 - Phong cảnh phủ đầy hoa của mùa xuân.

Những điệu múa mùa Xuân với thần Gió, những nàng tiên hoa và những chú chim mê hoặc. Sau khi cảm nhận được sức nóng của mặt trời, cả nhóm cùng cất cánh.

Cảnh 3 - Phong cảnh cánh đồng lúa mì dập dờn.

Những bông hoa ngô và anh túc say sưa trong ánh sáng ấm áp của nắng hè. Họ nghỉ ngơi sau khi gắng sức. Xuất hiện những nữ Thủy thần, những người mang nước đến để vạn vật sinh trưởng tươi tốt, và thần Bắp nhảy múa để tạ ơn. Các nữ Thủy thần và thần Nông chơi đùa đường ống của họ, và cố gắng bắt  thần Ngô, nhưng cô ấy được cứu bởi cơn gió của thần Gió.

Cảnh 4 - Phong cảnh vào mùa thu

Các mùa tham gia vào một vũ điệu lộng lẫy (hay còn gọi là "vũ điệu phồn thực mùa thu") trong khi lá từ những cây mùa thu trút xuống một cách vui vẻ.

Cao trào - Bầu trời âm u với các chòm sao lấp lánh.

https://youtu.be/Pxf-urQe_AQ?si=6poBREGSoMzetmtw

 

10.   Bốn Mùa của Astor Piazzolla(1921-1992)

Astor Piazzolla sinh ra tại Mar Del Plata, một thành phố thuộc tỉnh Buenos Aires, Argentina. Gia đình Piazzolla gốc từ Ý nhập cư vào Argentina từ cuối thế kỷ XIX. Năm 1925 gia đình Piazzolla chuyển đến New York. Cậu bé được tiếp xúc với nhạc jazz và cổ điển khi nghe các đĩa nhạc của bố. Năm lên tám cậu bé bắt đầu chơi bandoneón(một kiểu accordion của người Argentina)  khi ông bố kiếm được một cây ở tiệm cầm đồ. Năm 1932 khi 11 tuổi, Astor bắt đầu sáng tác bản tango đầu tiên. Năm sau đó, Astor học nhạc với nghệ sĩ piano cổ điển người Hungary Bela Wilda, một học trò của Rachmaninoff, và cậu đã được học chơi nhạc Bach trên bandoneon. Vài năm sau đó, qua radio Astor đã rất ấn tượng về cách diễn tấu nhạc tango mới mẻ của nhóm sextet Elvino Vardaro. Năm 1941, anh gặp bậc thầy Arthur Rubinstein, khi đó đang ở Buenos Aires, và bậc thầy khuyên anh nên theo học Alberto Ginastera, một nhà soạn nhạc Argentina nổi tiếng. Năm 1954 đánh dấu bước ngoặt quan trọng nhất của sự nghiệp của Piazzolla khi anh đến Paris theo học bậc thầy danh tiếng Nadia Boulanger. Bà khuyên: Anh đừng nên  trở thành một nhà soạn nhạc châu Âu, hãy viết tango cùng những gì anh học được ở đây(Nhạc viện Paris). Sau đó, Piazzolla bắt đầu tạo ra những tác phẩm tango theo phong cách mới - Nuevo Tango. Ông đem tango Argentina vào các tác phẩm thính phòng cũng như giao hưởng. Khi bắt đầu có tiếng tăm, ông đã bị những người đồng hương bảo thủ căm ghét vì cho rằng ông đã phá hỏng nhạc tango truyền thống của họ. Thậm chí còn bị họ dọa giết. Một trong những tác phẩm được yêu thích nhất của ông là bộ bốn bản tango Cuatro Estaciones Porteñas, hoặc Estaciones Porteñas đều có nghĩa là Bốn Mùa của người Buenos Aires. Porteno trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “người đất cảng” nhưng qua thời gian từ này để chỉ riêng người thủ đô Buenos Aires, một hải cảng lớn của Nam Mỹ. Bộ tác phẩm này viết cho ngũ tấu violin(hoặc viola), piano, guitar điện, double bass và bandoneón. Verano Porteño (Mùa Hè của người Buenos Aires) – sáng tác năm 1965 làm nhạc nền cho vở kịch Melenita de oro của Alberto Rodríguez Muñoz.

1.       Invierno Porteño (Mùa Đông của người Buenos Aires) - sáng tác năm 1969.

2.       Primavera Porteña (Mùa Xuân của người Buenos Aires) - sáng tác năm 1970.

3.       Otoño Porteño (Mùa Thu của người Buenos Aires) - sáng tác năm 1970.

Ban đầu, bốn bản tango này là những tác phẩm độc lập, về sau ông mới ghép thành bộ Bốn Mùa.

https://open.spotify.com/album/6B3Hmh10kvJVMxG1LWbkjl?si=beQV8_j4SQOoeoTlJEUdLA

 

11. Bốn Mùa của Darius Milhaud(1892-1974)

Darius Milhaud là một trong những nhà soạn nhạc nổi bật nhất của Pháp ở đầu thế kỷ XX đặc trưng bằng các kỹ thuật sáng tác đa tiết tấu và đa điệu thức có kết hợp yếu tố jazz, dân gian Mỹ Latinh. Sau thời gian làm việc ở Mỹ trong Thế chiến II, năm 1947 ông đã trở về quê hương. Trong thời gian sau đó ông đã sáng tác "Les Quatre Saisons"(bốn mùa) là một chùm 4 concerto độc lập, mỗi bản viết cho một nhạc cụ solo khác nhau cùng dàn nhạc thính phòng:

1. Concertino de Printemps(Concerto cho Mùa Xuân) cho violin và 6 nhạc cụ solo khác ( năm 1951)

2. Concertino d'Eté(Concerto cho Mùa Hè ) cho viola và 9 nhạc cụ solo khác. (Sáng tác năm 1951)

3. Concertino d'Automne(Concerto cho Mùa Thu )  cho kèn oboe và 8 nhạc cụ solo khác. (Sáng tác năm 1950)

4. Concertino d'Hiver(Concerto cho Mùa Đông) cho kèn trombone và dàn nhạc dây. (Sáng tác năm 1949)

https://open.spotify.com/album/08izzIQCNK8OHxa7VMywfU?si=QlnSpPVFTcW899n6aXXzig

 

12. Bốn Mùa của Mikhail Bronner (1952)

Mikhail Bronner là nhà soạn nhạc đương đại người Nga, hiện ông là giáo sư tại Viện Âm nhạc Ippolitov ở Moscow. Ông là một nhà soạn nhạc viết khỏe với nhiều thể loại. Ông sáng tác "The Seasons" vào năm 1992 và được coi như một "vòng hoa"  thể hiện sự ngưỡng mộ của Bronner đối với nhà soạn nhạc vĩ đại Tchaikovsky. The Seasons của Bronner cũng gồm 12 tiểu phẩm, mỗi bản mô tả một tháng trong năm. Ban đầu, "The Seasons" được phối cho một ngũ tấu, bao gồm piano, violin, cello, flute, và clarinet. Vào năm 2007, tác phẩm xuất hiện trong một phiên bản cho tứ tấu đàn dây cùng flute và clarinet. Sau đó, nó còn được chuyển soạn và biểu diễn/thu âm trong một phiên bản khác dành cho dàn nhạc thính phòng với sự tham gia của các nhạc cụ solo như flute và clarinet.

https://youtu.be/eG-75SBX6iw?si=0rSLxj6PxcOG4EqB

27/6/2025

Phiên bản đầu tiên 8/2/2021 chỉ có 5 tác phẩm, 1/2023 bổ sung lần đầu, 23/12/2023 bổ sung lần 2

Trịnh Minh Cường

 

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...