Nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ violin bậc thầy người Ý Arcangelo Corelli đã có ảnh hưởng rộng rãi đối với những đồng nghiệp cùng thời và nhiều thế hệ sau ông. Ông sinh ra ở Fusignano, Ý, vào 17/2/1653, đủ một thế hệ trước Bach và Handel đều sinh năm 1685. Ông học ở Bologna, một trung tâm âm nhạc nổi tiếng, rồi tự củng cố kiến thức tại Rome vào những năm 1670. Đến năm 1679, Nữ hoàng Thụy Điển Christina, người đã đến cư trú tại Rome vào năm 1655 sau khi thoái vị một năm trước đó, đã thành lập ở đó một học viện văn học mà sau này trở thành Học viện Arcadian. Nhờ những thành công quốc tế ngày càng tăng, ông dễ dàng nhận được sự hỗ trợ của hàng loạt những nhà bảo trợ có ảnh hưởng. Lịch sử đã ghi nhận ông với những danh hiệu "Người sáng lập ra kỹ thuật Violin hiện đại", "Nghệ sĩ violin vĩ đại đầu tiên trên thế giới" và "Cha đẻ của Concerto Grosso." Những đóng góp của ông có thể được chia theo ba lĩnh vực: nghệ sĩ violin, nhà soạn nhạc và nhạc sư. Chính kỹ năng chơi loại nhạc cụ mới gọi là violin và những chuyến lưu diễn rộng khắp và rất thành công của ông ở châu Âu đã giúp ông có được vị trí nổi bật trong đời sống âm nhạc đương thời. Sự nổi tiếng của ông với tư cách nghệ sĩ violin không khác gì của N. Paganini hơn 200 năm sau. Tuy nhiên, Corelli không phải là một nghệ sĩ điêu luyện theo nghĩa đương đại. Vào thời đó, chỉ riêng tiếng đàn đẹp đã làm nổi bật những nghệ sĩ violin lớn. Mà chất lượng tiếng đàn của Corelli đáng chú ý nhất ở châu Âu hoàn toàn theo tường thuật. Ngoài ra, Corelli còn là người đầu tiên thiết lập các yếu tố cơ bản của kỹ thuật diễn tấu violin. Ông và A Vivaldi được coi là ông tổ của các nghệ sĩ violin.(xem bảng phả hệ các nghệ sĩ violin)
Sự nổi tiếng của Corelli trên cương vị nghệ sĩ violin
cũng sánh ngang với thành công như một nhà soạn nhạc. Âm nhạc của ông đã được
biểu diễn và được kính trọng trên khắp châu Âu. Các sáng tác phổ biến nhất của
ông là khí nhạc. Có điều đáng lưu ý là sự thể hiện lòng tôn kính đến Corelli vĩ
đại là một mục đích quan trọng trong chuyến du lịch Ý của chàng trai trẻ
Handel. Tuy nhiên, số lượng sáng tác của Corelli khá nhỏ. Tất cả sáng tác của
ông nằm trong 6 Opus:
Opus 1: 12 sonate da chiesa (12 trio sonata nhà thờ cho
2 violin và bè continuo) -Rome 1681.
Opus 2: 12 sonate da camera (12 trio sonata thính phòng
cho 2 violin và bè continuo) -Rome 1685.
Opus 3: 12 sonate da chiesa (12 trio sonata nhà thờ cho
2 violin và bè continuo ) - Rome 1689.
Opus 4: 12 sonate da camera (12 trio sonata thính phòng
cho 2 violin và bè continuo )-Rome 1694.
Opus 5: 12 Suonati a violino e violone o cimbalo (6
trio sonata cho 2 violin và bè continuo, 6 trio sonata cho 2 violin và cembalo)- Rome
1700. Sonata cuối nổi tiếng nhất gồm các biến khúc trên chủ đề La Folia. Chủ đề
này được nhiều nhà soạn nhạc thời Lãng mạn phát triển thành các biến khúc của
riêng họ, nổi tiếng nhất là Các biến khúc của S. Rachmaninoff.
Opus 6: 12 concerti grossi (8 concerto nhà thờ và 4
concerto thính phòng cho dàn nhạc 2 violin và cello, dàn dây và bè trầm liên tục)
– viết 1680 Rome, xuất bản 1714 Amsterdam.
Một trong những
học trò nổi tiếng của Corelli, Geminiani, đã suy nghĩ rất nhiều về các Sonata
Opus 5, đến mức ông đã chuyển soạn tất cả các tác phẩm đó thành các Concerto
Grosso. Tuy nhiên, chính các Concerto Grosso Opus 6 của ông, Corelli đã đạt đến
đỉnh cao sáng tạo của mình và cũng là đỉnh cao cho những đóng góp âm nhạc của
ông.
Mặc dù Corelli không phải là người phát minh ra nguyên
tắc của Concerto Grosso, nhưng chính ông là người đã chứng minh tiềm năng của
hình thức này bằng cách phổ biến nó và viết bản nhạc tuyệt vời đầu tiên trong
cho hình thức này. Thông qua những nỗ lực của ông, hình thức này đã đạt được vị
trí ưu việt trong thời kỳ baroque như J. Haydn đã làm với thể loại giao hưởng.
Nếu không có những khuôn mẫu thành công của Corelli, thì Vivaldi, Handel và
Bach đã không thể mang lại cho chúng ta những kiệt tác Concerto Grosso của họ.
Hình thức Concerto Grosso được xây dựng trên nguyên tắc
tương phản hai nhóm nhạc cụ có quy mô khác nhau. Trong các Concerto Grosso của
Corelli, nhóm nhỏ hơn gồm hai violin và một cello, và nhóm lớn hơn là một dàn
nhạc dây. Các chỉ dẫn về cường độ trong
tất cả các bản nhạc thời kỳ này đều dựa trên nguyên tắc từng bậc; mạnh dần và nhẹ
dần chưa được biết đến, sự tương phản giữa mạnh và nhẹ và giữa các nhóm đàn dây
lớn và nhỏ tạo nên sự đa dạng về cường độ của các bản nhạc.
Trong tất cả các sáng tác của ông, chính Opus 6 mà
Corelli đã làm việc siêng năng và tận tụy nhất. Mặc dù sinh thời, ông không cho
phép xuất bản chúng, nhưng Op. 6 vẫn là một trong những chùm nhạc nổi tiếng nhất
thời bấy giờ. Thời gian sáng tác không xác định được vì Corelli đã dành nhiều
năm cuộc đời mình để viết đi viết lại các bản nhạc này, từ khi còn ở tuổi đôi
mươi.
Trio Sonata, một sáng tác khí nhạc thường đòi hỏi có bốn
nhạc công thị tấu từ những cuốn vở ba bè, được coi là có tầm quan trọng to lớn
trong âm nhạc baroque, phát triển từ đầu thời kỳ ở đầu thế kỷ XVII cho đến khi bừng
nở ở cuối thời kỳ trong các tác phẩm của Handel, Vivaldi, Johann Sebastian Bach
và những người cùng thời với họ, đã thay đổi những thành tựu trước đó của
Arcangelo Corelli trong hình thức này. Nhạc cụ của trio sonata, có thể vì lý do
thương mại, cho phép một số lựa chọn tự do. Tuy nhiên, cách sắp xếp phổ biến nhất
đã hình thành là hai violin và cello, cùng một harpsichord hoặc một nhạc cụ
chơi hợp âm để tạo hòa âm.
Trio sonata là nền móng của concerto grosso, concerto
khí nhạc tạo tương phản giữa một nhóm concerto nhỏ gồm bốn nhạc cụ của trio
sonata cùng nguyên dàn nhạc dây, có thể tăng gấp đôi cho các đoạn cường độ mạnh
hơn.
Việc đề tặng các sonata của Corelli đánh dấu những tiến
triển của ông trong số những nhà bảo trợ lớn của Rome. Ông đã đề tặng bộ 12
Trio Sonata Nhà thờ đầu tiên của mình, Opus 1, xuất bản năm 1681, cho Nữ hoàng
Christina, mô tả tác phẩm là thành quả đầu tiên trong quá trình nghiên cứu của
mình. Bộ Trio Sonata thứ hai của ông, Các Sonata Thính phòng Opus 2, được xuất
bản vào năm 1685 đề tặng cho nhà bảo trợ mới, Hồng y Pamphili, người mà ông đã
phục vụ vào năm 1687 cùng nghệ sĩ violin
Fornari và nghệ sĩ cello Lulier. Bộ Trio sonata thứ ba, một chùm 12 bản Sonata
Nhà thờ thứ hai, Opus 3, được phát hành vào năm 1689, với đề tặng cho công tước
Francesco II của Modena, và tập cuối cùng gồm 12 Sonata Thính phòng, Opus 4, được
xuất bản vào năm 1694 với đề tặng cho nhà bảo trợ mới, Hồng y Ottoboni, cháu
trai trẻ của Giáo hoàng Alexander VIII, sau khi Hồng y Pamphili bị chuyển đến
Bologna vào năm 1690. Hồng y Ottoboni trở thành nhà bảo trợ chính của Corelli,
người đã giúp Corelli có thể theo đuổi sự nghiệp của mình mà không phải lo lắng
về tiền bạc, và dường như chưa có nhà soạn nhạc nào có được một nhà bảo trợ nhiệt
tình hoặc trí tuệ hơn.
Thành tựu của Corelli về mặt đào tạo tiếp tục thành
công xuất sắc. Trong số nhiều học trò của ông không chỉ có Geminiani mà có cả
Antonio Vivaldi nổi tiếng. Chính Vivaldi là người kế tục Corelli ở cương vị nhà
soạn nhạc viết các Concerto Grosso tuyệt vời và có ảnh hưởng lớn đến âm nhạc của
J. S. Bach.
Corelli đã chiếm một vị trí hàng đầu trong đời sống âm
nhạc của Rome trong khoảng ba mươi năm, biểu diễn như một nghệ sĩ violin và chỉ
đạo các buổi biểu diễn thường xuyên vào những sự kiện công cộng quan trọng nhất.
Phong cách sáng tác của ông đã được nhiều nhà soạn nhạc học tập và trở thành mẫu
mực, cả bằng cách xuất bản lẫn trình diễn ở Rome trong suốt đời ông.
Nhận xét
Đăng nhận xét