Chuyển đến nội dung chính

AGUSTÍN BARRIOS – MANGORÉ, THIÊN TÀI BẢO THỦ

 

Nửa sau thế kỷ XIX, cây đàn guitar bắt đầu được thính giả quan tâm trở lại sau một thời gian tưởng chừng bị quên lãng. Sự trở lại của guitar nhờ công lớn của bậc thầy người Tây Ban Nha Francisco Tarrega (1852-1909) và các học trò của ông. Sang đầu thế kỷ 20, vị thế của cây đàn 6 dây này lại tiếp tục được nâng cao hơn nhờ bậc thầy vĩ  đại Andres Segovia (1893-1987) cũng là người Tây Ban Nha. A. Segovia  không những làm gia tăng số lượng thính giả bằng tài nghệ diễn tấu của mình, ông còn thu hút được nhiều nhà soạn nhạc đương thời sáng tác cho guitar. Trọng trách của A. Segovia đã có thể được chia sẻ bởi một đồng nghiệp người Paraguay  là Agustín Barrios - Mangoré (5/5/1885-7/8/1944). Tên khai sinh của ông là Agustín Barrios  là con của phó lãnh sự Argentina tại hạt Misiones, Paraguay và một nữ giáo viên trung học. Hai ông bà đều là người yêu văn học nghệ thuật với một thư viện riêng lớn nhất vùng. Họ có bảy người con đều chơi nhạc từ nhỏ và các anh em đã lập thành một nhóm hòa tấu gia đình. Tài năng của Agustín sớm được phát triển nhờ thày Nicolino Pellegrini. Nicolino Pellegrini sinh ra ở Viggiano, Potenza, Italia. Ông học violin ở Geneva và Paris. Năm 1893 ông đến Asunción, Paraguay và định cư ở đó. Ông kiếm sống bằng nghề dạy violin, lên dây piano và tổ chức hoà nhạc. Rồi ông thành lập một dàn nhạc sinh viên và là nhạc trưởng chính của dàn nhạc đó. Năm 1895, ông sáng lập Viện Paraguay và được bổ nhiệm là giám đốc của chương trình âm nhạc ở đó. Người ta kể lại rằng Barrios đã bỏ Trường trung học Quốc gia vào năm 1903 để đến học nhạc ở Viện này với Pellegrini. Anh cũng học chút ít violin và cello. Nhờ thày mình, Agustín bắt đầu được mọi người biết đến. Nhưng anh cũng sớm nhận ra không thể kiếm sống bằng nghề biểu diễn nên anh bắt đầu nhận dạy. Năm 1905, Agustín bắt đầu có sáng tác đầu tay là  Abrí la Puerta mi China. Trong giai đoạn này, nhạc mục của anh gồm các làn điệu dân ca Paraguay và các tác phẩm của D. Aguado, F. Sor và García Tolsa.

Anh đi biểu diễn ở các thị trấn ở Paraguay và bắt đầu thấy cần phải đi xa hơn. Anh đã gặp thêm một người quan trọng với mình: Viriato Díaz Pérez, một người Tây Ban Nha di cư đến Paraguay. Ông đã thôi thúc và giúp đỡ anh rời Paraguay để tìm kiếm những chân trời mới. Tháng Giêng năm 1910, ông đã viết thư giới thiệu anh với một người bạn người Argentina, Mario Villar Sáenz Valiente, chủ bút tờ La Nación ở Buenos Aires. Thời gian này Barrios đang biểu diễn ở các thị trấn Corriente, Posadas và Recistencias ở Argentina. Valiente đã nghe tường thuật về việc Barrios chơi nhạc ở thị trấn Corriente và mời anh đến Buenos Aires.

Buenos Aires là một trung tâm nghệ thuật và âm nhạc lớn của Nam Mỹ. Thành phố này có nhiều người nhập cư từ nhiều nước, đặc biệt từ Italia, và ở đó luôn có một bầu không khí quốc tế. Agustín có cơ hội để dự khán những nghệ sĩ hàng đầu châu Âu ở nhà hát Colón tuyệt vời. Nhưng khởi đầu không hề dễ dàng với anh. Nghệ sĩ trẻ phải chơi nhạc sống ở các rạp chiếu phim để làm nhạc nền cho các phim câm. Anh cũng chơi nhạc nền cho các vở kịch ở nhà hát kịch. Đầu năm 1911, thỉnh thoảng anh đến Chile lưu diễn và thậm chí đến tận Peru. Theo báo chí, anh đã biểu diễn một buổi hòa nhạc ở Santiago và bị chỉ trích dữ dội vì anh đã trình diễn một chương trình kém chất lượng với chủ yếu là các bản nhạc dân gian và anh đã sử dụng dây kim loại. Vào thời điểm đó, nghệ sĩ của chúng ta đã không trình diễn những gì được coi là chuẩn mực cho các nghệ sĩ guitar cổ điển. Anh chơi chủ yếu âm nhạc dân gian và ít tác phẩm kinh điển của Aguado và Sor mà anh đã học. Ngày nay, một điều dễ được thừa nhận là âm nhạc dân gian Latin chơi trên dây kim loại có sự hấp dẫn riêng. Vả lại ở thời điểm đó, không chỉ riêng Barrios biểu diễn guitar bằng dây kim loại. Một nghệ sĩ guitar người Tây Ban Nha đang nổi tiếng lúc đó là Sáinz de la Maza cũng dùng dây kim loại. Ngược lại với Sáinz de la Maza, A. Segovia hết sức phản đối dây kim loại và ủng hộ hết mình cho dây ruột thú. Và không cần quá nhiều thời thời gian, mọi người đều nhận thức được tầm nhìn thiên tài của A. Segovia.

 Barrios đã thành công ở Uruguay rồi Brasil với các sáng tác ngày một nhiều của mình cùng các tác phẩm cổ điển nguyên tác cũng như chuyển soạn. Sau đó ông quay về Argentina thì các khán giả bắt đầu không ủng hộ ông như trước. Khoảng năm 1930, Barrios quyết định rời miền nam Nam Mỹ và đi về phía bắc từ Rio de Janeiro đến Hoa Kỳ. Ông tự nhận mình là Nitsuga Mangore - “Sứ giả của bộ lạc Guarani, Paganini của guitar từ núi rừng Paraguay”. Rồi ông xuất hiện trong các buổi hoà nhạc với trang phục của người da đỏ với đủ lông vũ, cung và tên. Ông làm như vậy mong thu hút khán giả trở lại với ông. Năm 1932, ông đã rất thành công ở Venezuela, Colombia và El Salvador. Năm 1934 ông gặp Tomás Salomoni là đại sứ Paraguay ở Mexico. Ông đại sứ đã thuyết phục Barrios thôi đóng vai Nitsuga Mangore bởi nó “không cao quý và thích hợp”. Theo cách này tù trưởng Nitsuga Mangore đã về hưu, mặc dù sau đó ông vẫn tự giới thiệu trong buổi hoà nhạc là “Barrios - Mangore”. Salomoni rất quan tâm đến việc thúc đẩy hơn nữa sự nghiệp của Barrios. Ông biết Barrios cần đến châu Âu và rồi họ đã lên tàu đi châu Âu. Ông đã biểu diễn một buổi ở Nhạc viện Hoàng gia Bỉ. Trước những giáo sư uyên bác, ông đã trình bày những tác phẩm của Bach, Beethoven, Chopin... nhưng các tác phẩm này không gây được ấn tượng cho họ. Trong phần hai ông bắt đầu giới thiệu các sáng tác của mình. Và khi kết thúc chương trình, các nhà phê bình hét vang “bravo!”. Đây là một trong những thắng lợi lớn nhất của Barrios - Mangore. Ông đến Berlin nhưng không biểu diễn buổi nào vì sự lạnh nhạt của các nhà tổ chức ở đó. Tháng 2 năm 1936, ông quay lại Trung Mỹ và lưu diễn ở những nơi quen thuộc cũ. Ông dừng chân ở El Salvador đến khi qua đời vào năm 1944.

Robert Edgeworth Johnstone, một học trò của ông ở Venezuela từng nhận xét: “Ông là một người chơi đàn khá trầm lặng, ông không nhắm đến âm lượng. Tôi không biết đó là do cây guitar của ông hay kỹ thuật của ông, hoặc đó là cái gì. Tôi chỉ có thể nói tại thời điểm đó tôi đã thấy rất hài lòng. Nếu một nhà quản lý giỏi nắm được Barrios, ông hẳn sẽ là một nhân vật tầm cỡ thế giới. Và cả một nhà soạn nhạc tầm cỡ thế giới nữa. Tất nhiên ông không phải một người tự đẩy mình vào những vụ làm ăn hay chạy đua. Nhưng ít nhất ông đã thoả mãn. Ông không phàn nàn về việc không được thừa nhận. Tôi không tìm thấy bất kỳ thái độ nào kiểu như vậy”. Pablo Javier Antuña, tác giả bài tiểu sử Barrios – Mangore và cũng là người Paraguay, cho rằng: “Johnstone đang nói về một thái độ kiểu Paraguay điển hình. Dễ thoả mãn với những gì họ có, rất hiếm người Paraguay chạy đua cho một việc làm ăn, họ chỉ cố gắng khi bị thôi thúc bởi những nhu cầu xa vời, bạn bè hay áp lực xã hội”.

Ông đã có cơ hội để khẳng định mình ở châu Âu, nơi có tính quyết định sự thành công cho sự nghiệp âm nhạc của bất cứ nhạc sĩ nào. Tất nhiên, một nghệ sĩ có đẳng cấp cao không cần phải chiều thị hiếu của số đông thính giả mà cần định hướng họ. Nhưng Barrios – Mangore chưa đủ lượng thính giả cần thiết để định hướng thẩm mỹ cho họ. Danh họa P. Picasso từng nói “ Anh cứ nổi tiếng đi đã rồi muốn vẽ gì thì vẽ”. Nếu Barrios – Mangore thức thời hơn, chắc chắn di sản ghi âm của âm nhạc guitar đầu thế kỷ 20 sẽ không chỉ có A. Segovia. Ngày nay, các bản ghi âm ít ỏi của Barrios – Mangore còn tồn tại là những bản ghi âm mono với chất lượng âm thanh đủ tồi để thính giả không nhận ra tài nghệ của Barrios – Mangore như người cùng thời vẫn ca ngợi.

Nhưng có một câu hỏi được đặt ra về sự công bằng. Sau Barrios – Mangore khoảng một thế hệ, nghệ sĩ guitar tài năng của nước Nga Soviet A. Ivanov-Kramskoy (1912-1973) cũng chỉ dùng dây kim loại nhưng ông được thính giả châu Âu chào đón và tôn vinh là “Ông hoàng đàn dây của châu Âu”. Tuy nhiên Ivanov-Kramskoy  dùng dây kim loại vì ở nước Nga khi đó không có dây nylon để dùng chứ không phải vì quan điểm nghệ thuật. Liệu người châu Âu có công bằng với  Barrios – Mangore?

Dù sao, các sáng tác của Barrios – Mangore chính là cứu tinh cho sự nghiệp của ông. Ông viết hơn 300 tác phẩm chủ yếu gồm các vũ khúc Mỹ Latin hay châu Âu, prelude và etude. Một số tác phẩm có tiêu đề riêng như các tác phẩm âm nhạc chương trình như La Catedral, Un Sueno en La Froresta (Giấc mơ trong rừng). Các tác phẩm của ông khai thác tối đa âm vực của guitar nên luôn là một thách thức cho tay trái của các guitarist. Dù có các ngón tay đủ dài nhưng họ vẫn phải xoạc hết cỡ tại một vài hợp âm trong các tác phẩm của ông. Dù là mazurka, gavotte hay các vũ khúc Latin và Paraguay, âm nhạc của ông luôn tràn đầy chất lãng mạn truyền thống của châu Âu. Và thật đặc biệt, hòa âm một số tác phẩm mang đậm phong cách phức điệu của J.S. Bach như Preludio Đô thứ, Preludio Saudade trong tuyệt phẩm 3 chương La Catedral (Nhà thờ lớn). Các tác phẩm của Barrios – Mangore chiếm vị trí quan trọng trong nhạc mục của các nghệ sĩ guitar hiện đại.

Hà nội, 10/6/2020

Trịnh Minh Cường

Tài liệu tham khảo: Tiểu sử Agustín Barrios-Mangoré của Pablo Javier Antuña.

Đăng trên Tạp chí âm nhạc số 3+4/2020

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...