Đó chắc chắn không phải là chơi chữ: hai cách đặt tên tác phẩm theo thể loại ngụ ý những khác biệt chủ yếu kiểu như nhạc cụ đệm là piano trong trường hợp này và là violin trong trường hợp kia. Trong số 36 sonata của Mozart viết cho violin và piano có thể tìm thấy những ví dụ hay cho cả hai trường hợp. Dù thuật ngữ “sonata cho piano có bè đệm” có thể lạ tai với chúng ta đến đâu thì nó cũng chỉ là một thể loại phòng khách Pháp cực kỳ thời thượng trong phần lớn thời kỳ Cổ điển. Tự thân các bè đàn phím vốn đã thú vị lại được chăm chút công phu và được đệm bằng violin hoặc flute, có nghĩa là thường tăng cường gấp đôi cho bè tay phải hoặc phần đệm bè trầm theo kiểu Alberti * ẩn khuất ở khoảng giữa, hoặc một nốt trì tục đóng vai trò hoà âm.
Thể loại này được ưa thích ở những phòng
khách của Paris những năm 1760-70. Ở đó, Mozart đã tiếp xúc với thể loại này lần
đầu tiên vào khoảng năm 1763-64 khi thần đồng âm nhạc làm quen với những sonata
cho piano có bè đệm của Schobert (nhà soạn nhạc có ảnh hưởng đến những sáng tác
thời niên thiếu của Mozart – Người Dịch). Trong lời giới thiệu về các bản
sonata có phần đệm của mình, nghệ sĩ violin Louis-Gabriel Guillemain đã đề cập
đến thể loại thịnh hành này khi ông viết rằng ý tưởng đầu tiên là soạn các tác
phẩm này cho harpsichord** độc tấu. Nhưng thể theo thị hiếu thời đại, ông đã không
thể cưỡng lại việc viết thêm bè violin "phải được chơi ở một giọng đủ thấp
để bè đàn phím có thể được nghe thấy một cách thỏa đáng".
Sonata giọng La trưởng K. 305 được viết
vào năm 1778 ở Paris và được xuất bản trong tập 6 sonata với lời đề tặng nhã nhặn
dành cho tuyển hầu xứ Pfalz. Vẻ vui tươi của chương đầu tiên Allegro di molto (ở
hình thức sonata, mang tính chất chạy đuổi mãnh liệt) bị lu mờ bởi nhiều chỗ
chuyển sang giọng thứ (có vẻ buồn – ND). Chương 2 Andante Grazioso có phần được
kiềm chế hơn đã tạo cơ hội cho các nhạc cụ luân phiên phô diễn kỹ thuật, với một
thoáng chốc ở giọng La thứ gợi nhớ đến các chương Thổ Nhĩ kỳ trong các tuyệt phẩm
sau này ở biến tấu áp chót và với sự tăng cường hợp âm tạo ra một đoạn cuối lôi
cuốn trong chương kết.
Với sonata giọng Si giáng trưởng K. 454 xuất
bản năm 1784, phong cách kiểu Mozart đã bỏ thế giới phòng khách thân tình lại
phía sau. Đó là một sonata lớn 3 chương, một sonata hòa nhạc, quy mô lớn của nó
tạo cho mọi bè tham gia một cơ hội thoải mái để phô diễn, cơ hội lần đầu tiên dành
cho nghệ sĩ violin người Ý Regina Strinasacchi và Mozart, hai người đã diễn rất
thành công khi sonata này được ra mắt lần đầu ở Vienna. Truyền thuyết kể rằng đến
hôm công diễn lần đầu, Mozart mới chỉ kịp hoàn thành bè violin nên ông đã chơi ứng
tác bè của mình với một trang giấy trắng trên giá nhạc, trước sự phấn khích cực
độ của Hoàng đế Joseph II đang xem buổi
diễn bằng ống nhòm. Alfred Einstein, học giả về Mozart, đã gọi tác phẩm 3
chương ( 1. Lento. Allegro; 2. Andante; 3. Allegro) là tác phẩm “hay nhất từ trước
đến nay” Mozart viết ở thể loại sonata cho violin và piano: Người ta khó có thể
hình dung “một sự đan xen hoàn hảo hơn và dí dỏm hơn của hai nhạc cụ” so với những
gì Mozart đã đạt được trong chương đầu hay một tổng hoà rực rỡ hơn của cảm xúc
và kỹ thuật ở chương giữa Andante.
Có lẽ sonata nổi tiếng và phổ biến nhất
trong số các sonata có bè violin đệm của Mozart là Sonata giọng Mi thứ K. 304,
sonata này cũng nằm trong chùm 6 sonata “Pfalz” năm 1778. Âm điệu buồn bã, cam
chịu trong số những âm điệu khác xuất hiện từ sự lựa chọn điệu thức phản ánh những
sự kiện bi thương diễn ra trong cuộc đời Mozart vào nửa đầu năm 1778: những thất
bại mang tính cá nhân của ông, lần thất tình ở Mannheim, thất bại về tài chính
và sự nghiệp trong thời gian ở Paris và hơn hết là cái chết đột ngột của mẹ ông
vào tháng Bảy, mà sau đó chàng trai 22 tuổi phải đương đầu không chỉ với cú sốc
mà còn với những lá thư buộc tội và quở trách của cha. Bản sonata chỉ gồm hai
chương:1. Allegro, 2. Tempo di Minuetto nhưng
lại là sáng tác thính phòng bi thương và nồng nhiệt nhất của Mozart, một
trong những tác phẩm điển hình khá ít ỏi ở giọng thứ trong số tác phẩm của
Mozart. Tiến trình âm nhạc tập trung của bản sonata chứa rất nhiều các hiệu ứng
bi thương (chủ đề pháo hoa ngược, chủ đề kết cam chịu biệt ly, vòng hoà âm
Phrygian ); đó là một “tác phẩm khủng hoảng” đầu thời kỳ lãng mạn chính cống.
Sonata giọng La trưởng K. 526 là sonata cho violin và piano quan trọng cuối cùng của nhà soạn nhạc. Theo các học giả đáng tin cậy, sonata này là bản thứ ba, cùng với hai sonata K. 454 và 487 trước đó, được cho là một bộ các sonata hòa nhạc có quy mô lớn. Sonata K. 526 được viết vào tháng Tám năm 1787, trong thời kỳ mang phong cách tao nhã, giữa những tác phẩm khác như serenade Khúc nhạc đêm nhỏ (Eine kleine Nachtmusik), các Ngũ tấu cho đàn dây giọng Sol thứ và Do trưởng, Lục tấu Dorfmusikanten-Sextett và Opera Don Giovanni. Không rõ hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: không hiểu do nhiệm vụ hay một động cơ nào khác. Mặc dù sự cân bằng của hai nhạc cụ là mẫu mực, trình độ điêu luyện chói sáng của bè piano (đặc biệt trong chương đầu tiên Allegro molto) cho phép kết luận là Mozart sáng tác bản nhạc này với những phẩm chất pianist của chính mình trong tâm trí. Chương chậm Andante chắc chắn là trung tâm của toàn bộ tác phẩm, một trong những khoảnh khắc hoàn toàn mang tính cá nhân của Mozart, không hề đa cảm. Có thể chỉ có một sự tiếp tục mang tính cao thượng: âm nhạc lóng lánh đầy hứng khởi của chương cuối Rondo tràn trề sức sống. Một trong những chủ đề là một giai điệu của nhà soạn nhạc Đức Carl Friedrich Abel (1723– 1787) vốn được Mozart rất kính trọng. Tất cả chỉ là tình cờ nhưng là một sự tình cờ bậc thầy: đó chính là cách Mozart tỏ lòng tôn kính của mình với bậc thầy vừa qua đời.
Eniko Gyenge
Bài viết kèm theo CD Mozart Sonatas for Violin & Piano / Erno Kallai Fejervari
Hungaroton 2014
Đĩa do ông bạn Kovacs Karoly tặng
1/2017
Trịnh Minh Cường dịch
Mời
thưởng thức các sonata nói trên qua tiếng đàn của danh cầm Anne-Sophie
Mutter: https://open.spotify.com/album/62SdJCY6HkkWbg5TGzCCrO?si=aG-u9DH9RXu6iN0r0dpabg
* Bè trầm theo kiểu Alberti: Cách tiến hành bè
trầm như hình vẽ được đặt theo tên nhà soạn nhạc italia Domenico Alberti (1710–1740),
người thường xuyên sử dụng kiểu bè trầm này chứ không phải người đầu tiên.
Nhận xét
Đăng nhận xét