Chuyển đến nội dung chính

THỜI PHỤC HƯNG - BÌNH MINH CỦA CÂY ĐÀN GUITAR

 

Thời Trung cổ ở châu Âu thường bị gọi là những đêm dài vì chiến tranh liên miên do khác biệt tôn giáo và thiên tai khốc liệt. Đời sống văn hoá xã hội lại bị kiểm soát hà khắc bởi thể chế cực đoan như toà án dị giáo. Phong trào Phục hưng như vầng dương làm sống lại những giá trị văn hoá đã rất phát triển của thời Hy - La và tiếp tục tiến lên một tầm cao mới. Phong trào Phục hưng diễn ra vào khoảng giữa hai thế kỷ 15 và 17. Thời kỳ này đã sản sinh ra những vĩ nhân trong mọi lĩnh vực tác động lớn đến đời sống của con người. Người ta đã khám phá ra hệ Mặt trời, tìm ra châu Mỹ, biết được trái đất hình cầu, giải phẫu cơ thể người, và sáng tạo ra rất nhiều tuyệt phẩm nghệ thuật… Với âm nhạc, thành tựu có tác động nhiều nhất là sự ra đời của máy in. Nhờ có công nghệ in ấn nên các tác phẩm âm nhạc được phổ biến dễ dàng hơn. Nhờ đó mà tính chuyên nghiệp trong các hoạt động âm nhạc cũng tiến bộ nhanh chóng. Những thành tựu chính của âm nhạc gồm:

-          Thanh nhạc trong âm nhạc thế tục phát triển mạnh với thể loại romance(ca khúc nghệ thuật) tạo thế cân bằng giữa hai dòng âm nhạc thế tục và tôn giáo.

-          Sự phát triển của âm nhạc nhiều bè đã tạo điều kiện để âm nhạc chủ điệu (có một bè chính) phát triển.

-          Âm nhạc và văn học phối hợp với nhau chặt chẽ hơn. Nhờ đó một thể loại rất quan trọng là opera đã ra đời.

-          Khí nhạc (nhạc viết cho nhạc cụ) dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào thanh nhạc để thành một mảng riêng cân đối với thanh nhạc.

-          Bản sắc dân tộc được các nhà soạn nhạc quan tâm hơn trong sáng tác. Nhờ đó mà hình thành các trường phái âm nhạc.

-          Bắt đầu xuất hiện những tổ chức chuyên biểu diễn âm nhạc để phục vụ thính giả mọi tầng lớp. Và đồng thời cũng xuất hiện những nhà bảo trợ nghệ thuật từ giới quý tộc.

Các quốc gia có nền âm nhạc phát triển hơn đều nhờ các nhà soạn nhạc.  Đó là Meaux de Vitry (1291 - 1361), Guillaume de Machaut (1300 - 1377) ở Pháp; Francesco Landino (1325 - 1397) ở Ý; John Dunstable (1390 - 1453) ở Anh; Des Drés Josquin (1440 - 1521) và Heinrich Isaac (1492 - 1555) ở Nederland (hay Flamand gồm Bỉ, Hà Lan và Đông Bắc Pháp). Đặc biệt nổi bật là nhà soạn nhạc Ý Giovani Pierluigi da Pelestrina (1525-1594). Ông là người đã nâng hình thức a capella (hợp xướng không nhạc đệm) lên đỉnh cao và có ảnh hưởng rất lớn đến âm nhạc các thời kỳ sau. Người ta đã so sánh ông với Raphael trong hội hoạ.  

Với cây đàn guitar, thời Phục hưng chính là buổi bình minh. Vì trong thời kỳ này đã xuất hiện và phát triển hai tiền thân của guitar là đàn lute và vihuela. Đầu thế kỷ 16 xuất hiện cây đàn lute, một nhạc cụ có 4 dây đôi như đàn mandoline bây giờ. Đàn lute đã nhanh chóng chinh phục người yêu nhạc châu Âu, đặc biệt là giới quý tộc, nhờ kích thước nhỏ gọn mà lại có khả năng đệm hát tuyệt vời ngoài khả năng độc tấu. Nhạc cụ khác như viol(tiền thân của violin) tuy nhỏ gọn nhưng không thể làm được tương tự như lute nếu chỉ với một cây đàn. Đàn phím đệm hát cũng tuyệt vời nhưng lại quá cồng kềnh. Sẽ càng thấy đàn lute tuyệt vời hơn khi nhảy múa trên nền nhạc của đàn lute. Âm thanh sôi động của một cây đàn lute khi chơi nhạc nhảy quả thật không có nhạc cụ nào sánh được. 

Tên tuổi nổi bật gắn với cây đàn lute là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ lute người Anh John Dowland (1563 – 20/2/1626). Người ta thường nghĩ rằng John Dowland được sinh ra ở London. Tuy nhiên ông đã đề tặng ca khúc From Silent Night cho “người đồng hương yêu thương của tôi, ông John Forster, một thương nhân trẻ tuổi ở Dublin, Ireland” cho thấy quê của Dowland có thể là Ireland. Năm mười bảy tuổi, ông đến Paris, nơi ông được ngài đại sứ Anh Henry Cobham thuê, và sau đó làm thuê cho ngài Edward Stafford. Dowland cải đạo sang công giáo trong thời gian ở Pháp. Năm 1584, ông trở về Anh để lập gia đình. Năm 1588, ông được nghiên cứu sáng tác nhạc tại nhà thờ Christ ở đại học Oxford và nhận bằng cử nhân âm nhạc ở đó. Năm 1592, ông được chơi đàn phục vụ Nữ hoàng Elizabeth. Khi hoàng cung dành một vị trí cho một nghệ sĩ lute vào năm 1594, Downland đã không thành công với đơn thỉnh cầu của mình. Ông tuyên bố có sự bất công vì ông là người công giáo. Thực ra ý kiến này của ông không công bằng khi đã có các nhạc sĩ công giáo khác như William Byrd làm việc trong hoàng cung.

Năm 1598, John Dowland đã nhận được mời đến làm việc tại triều đình Vua Christian IV của Đan Mạch, trong khi đó ông vẫn tiếp tục xuất bản nhạc của mình ở London. Rõ ràng nhà vua Đan Mạch rất thích nhạc của Dowland khi đã trả lương cho nghệ sĩ lute tới 500 daler một năm, một mức lương cao nhất trong số những người phục vụ triều đình. Sự ưu ái đặc biệt này không duy trì được lâu vì Dowland thường nghỉ việc để về Anh lo việc xuất bản. Ông bị triều đình Đan Mạch sa thải năm 1606. 6 năm sau đó, năm 1612, ông được hoàng gia Anh bổ nhiệm là một trong những nghệ sĩ lute của Vua James I năm 1612. Ông ít sáng tác trong thời gian phục vụ hoàng gia Anh. Ngày 20/2/1626, đúng một tháng sau lần nhận lương cuối cùng từ triều đình, ông qua đời và được chôn cất tại nhà thờ thánh Ann, Blackfriars, London.

Cảm hứng sáng tác của John Dowland bắt nguồn từ hình thức hát của người Anh gọi là “hát phối hợp”, cũng là kiểu nhạc nhảy đương thời. Các xuất phẩm âm nhạc của ông gồm có:

-          Các ca khúc cho đơn ca có lute đệm.

-          Các hợp ca cho nhiều bè có lute đệm.

-          Các tác phẩm hoà tấu cho các viol và lute.   

-          Các tác phẩm độc tấu cho lute.

Có thể cho rằng tác phẩm nổi tiếng nhất của ông Lachrimae hay Bảy Giọt lệ đã được viết trong thời kỳ ông ở Đan Mạch. Tác phẩm này viết cho năm viol cùng lute đệm gồm 7 biến tấu trên sáng tác trước đây của ông -  Lachrimæ Pavan. Đó là sáng tác nổi tiếng của ông trước đó và được coi là một trong những tập nhạc hoà tấu nổi tiếng nhất. Một bản Pavane phổ biến khác là Lachrymae Antiquae được sử dụng làm chủ đề cho các biến khúc của nhiều nhà soạn nhạc trong thế kỷ 17.

 Là nhà soạn nhạc đầu tiên giới thiệu cây đàn lute cho tầng lớp thượng lưu Anh, Dowland đã đi tiên phong trong việc sản xuất âm nhạc để chơi tại nhà của giới tư sản. Một trong những tập nhạc của ông đã được tái bản bốn lần. Các sáng tác đầu tiên của ông xuất phát từ những bản madrigal nặng nề của Ý trong thế kỷ trước, trong đó bao gồm các  chuyển soạn đơn giản kèm bè đệm là tiếng đàn lute ngọt ngào.

 Ngày nay, âm nhạc của John Dowland vẫn là nguồn cảm hứng cho các nhà soạn nhạc và các nghệ sĩ. Ví dụ tác phẩm Nocturnal của Benjamin Britten viết vào năm 1963 tặng nghệ sĩ guitar nổi tiếng Julian Bream, được lấy cảm hứng từ ca khúc của John Dowland: Come Heavy Sleepe, The Image of True Death. Đối với các ca sĩ thính phòng, các ca khúc của Dowland là một trong những lựa chọn hàng đầu khi họ hợp tác với các nghệ sĩ guitar. Bè đệm của lute trong ca khúc của Dowland cân bằng với bè hát đến mức nghe như một bản độc tấu. Điều này như sự dự báo cho các ca khúc nghệ thuật của F. Schubert với bè đệm của piano có tính năng tương tự sau đó 2 thế kỷ.

 Come Again là một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của ông:    https://youtu.be/dOgOIPwGC2Q

 Đàn lute sớm du nhập vào Tây Ban Nha. Tại đây, đàn lute đã trở nên quen thuộc với tầng lớp người Moor thống trị Tây Ban Nha. Chính vì lý do này mà những người yêu nhạc Tây Ban Nha không chào đón đàn lute. Tuy nhiên, họ cũng bị đàn lute và âm nhạc viết cho nó chinh phục. Vì vậy, các nhạc sĩ Tây Ban Nha  thấy cần một loại nhạc cụ khác tương tự như lute để có thể chơi được âm nhạc đó. Qua thời gian, một cây đàn có hình dáng mảnh mai hơn lute đã dần hình thành. Thậm chí cây đàn này còn nhỉnh hơn lute một chút về khả năng diễn tấu khi có 6 dây đôi. Người Tây Ban Nha gọi nó là đàn vihuela. Đàn vihuela dài hơn cây đàn guitar cổ điển ngày nay cỡ 4 inche, cần đàn gồm 12 phím. Vihuela đã nhanh chóng chinh phục những người yêu nhạc ở Tây Ban Nha. Họ đã say sưa chơi vihuela và viết nhạc cho nó, cả chuyển soạn từ âm nhạc cho lute và viết mới. Âm nhạc cho vihuela không chỉ làm say mê thính giả Tây Ban Nha mà còn nhanh chóng vượt ra ngoài biên giới Tây Ban Nha cùng tên tuổi các nghệ sĩ vihuela ở đó. Nổi tiếng nhất trong họ là Luis Narvaez (khoảng 1500), Luis De Milan (1500 – 1561) và Alonso Mudarra (1510 – 1/4/1580).

Luis de Narváez sinh ra ở Granada, Tây Ban Nha vào khoảng năm 1500. Ông là nhà soạn nhạc và nghệ sĩ vihuela được đánh giá cao trong thời đại mình. Ngày nay, ông nổi tiếng với hợp tuyển Los seys libros del delphín (Sáu cuốn sách của cá heo). Đây là hợp tuyển nhạc phức điệu cho vihuela bao gồm các biến khúc sớm nhất của lịch sử âm nhạc phương Tây. 

Ông xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1526 tại gia đình Francisco de los Cobos y Molina, quan đại thần của vương quốc Castile dưới thời vua Tây Ban Nha Charles V. Vị quan này vốn nổi tiếng là một nhà bảo trợ nghệ thuật. Narváez sống ở Valladolid, kinh đô của Tây Ban Nha khi đó, làm việc cho vị quan đại thần này. Tại đây năm 1538, ông đã xuất bản tập Los seys libros del delphín đề tặng nhà bảo trợ của mình. Đến năm 1548, ông cùng nhà soạn nhạc đàn phím nổi tiếng Antonio de Cabezón được thuê làm nhạc sĩ cho nhà nguyện hoàng gia của Felipe, nhiếp chính Tây Ban Nha, sau này thành vua Philip II của Tây Ban Nha. Narváez cũng dạy nhạc cho các ca sĩ trong dàn hợp xướng của nhà nguyện và chỉ huy dàn hợp xướng. Ông tháp tùng cùng đoàn tuỳ tùng hoàng gia trong nhiều chuyến du ngoạn. Những tài liệu lịch sử cho thấy ông đã ở Hà Lan trong mùa đông năm 1549. 

Bậc thầy Tây Ban Nha này có tiếng là nhà soạn nhạc đầu tiên viết cho vihuela phỏng theo phong cách âm nhạc Ý viết cho đàn lute. Là một nghệ sĩ vihuela, ông được đánh giá cao trong thời của mình, đặc biệt là khả năng ứng tác. Ông có thể ứng tác một tác phẩm 4 bè mà ông chưa từng biết. Ông cũng rất nhiệt tình với thanh nhạc phức điệu.

Hợp tuyển Los seys libros del delphín là di sản âm nhạc quan trọng nhất của Narvaez còn tồn tại. Cách ghi âm tab cho hợp tuyển này là một biến thể của cách ghi âm tab kiểu Ý. Hai tập đầu tiên có 14 bản fantasia phức điệu theo phong cách Ý. Đôi khi các motive ngắn đã được sử dụng với cách dùng ngón tay trái giống hệt nhau, điều này đã phản ánh những kỹ thuật ông dùng khi chơi ứng tác. Âm nhạc này làm liên tưởng đến tác phẩm của nghệ sĩ lute Ý Francesco da Milano, người có tác phẩm trong hợp tuyển của Narvaez.

Tập 3 dành riêng cho các tác phẩm chuyển soạn cho vihuela bao gồm:

·                     Các thánh ca chọn lọc của Josquin des Prez.

·                     Ca khúc nổi tiếng Mille Regretz cũng của Josquin des Prez, tiêu đề riêng của nó "La canción del Emperador" (Bài hát của Hoàng đế) cho thấy đây hẳn là ca khúc yêu thích của vua Charles V.

https://youtu.be/cWxDG-f8OQc

·                     Hai ca khúc của Nicolas Gombert (Một bài được cho là của Jean Courtois)

Các tập 4,5, 6 có nội dung hỗn hợp và điểm nổi bật là tập 6, các


biến khúc (variations hoặc diferencias)
đầu tiên trong lịch sử được xuất bản. Nét đặc trưng trong nhạc phẩm của Narváez là bao gồm cả nhạc tôn giáo và thế tục với nhiều kỹ thuật diễn tấu phong phú. Bên cạnh các biến tấu trên giai điệu, tập 6 còn có hai tác phẩm Guardame las vacas và Conde claros – hai tập biến khúc trên nền hoà âm không đổi. Phần còn lại gồm các villancico (thánh ca), romance (tình ca) và tác phẩm a Baxa de contrapunto (Một bè trầm đối vị).  

Guardame las vacas : https://youtu.be/XFis7egw138

Luys Milán hay Luis de Milán sống trong khoảng 1500 - 1561. Ông là người đầu tiên xuất bản âm nhạc cho vihuela gảy bằng ngón tay. Các nhạc phẩm của ông đáng chú ý ở chỗ trong đó có các chỉ dẫn nhịp độ (tempo) đầu tiên trong lịch sử âm nhạc. 

Báo in đầu tiên trên bán đảo Iberia được phát hành tại Valencia vào năm 1473 và chắc chắn công nghệ mới này đã ảnh hưởng đến động lực của Milán trong việc xuất bản các tác phẩm của ông. Milán chắc hẳn sống cả đời ở Valencia dù chi tiết trong các tài liệu còn sơ sài. Theo những gì chúng ta biết được thì ông được triều đình tuyển dụng đến năm 1538. Năm 1535 ông đã xuất bản một cuốn sách trò chơi với âm nhạc mang tên El juego de mandar (Trò chơi chỉ huy). Một năm sau, ông xuất bản cuốn thứ hai Libro de música de vihuela de mano intitulado El maestro (Sách nhạc cho vihuela gảy bằng ngón tay mang tên Bậc thầy) là cuốn sách âm nhạc quan trọng nhất của ông. Cuốn sách này viết cho Vihuela và đề tặng Vua John III của Bồ Đào Nha. Cuốn sách có sáu bản thánh ca (theo phong cách của ca khúc phổ biến) được viết bằng tiếng Bồ Đào Nha. Hai điều trên cho thấy Luys Milán đã đến thăm đất nước Iberia này.

Trong cuốn Libro de música de vihuela de mano intitulado El maestro, Luys Milán đã giới thiệu tuyển tập nhạc cho vihuela đầu tiên trong lịch sử. Dường như tuyển tập này dự kiến dành cho sinh viên vì âm nhạc được sắp xếp tăng dần về trình độ. Ấn phẩm này có hơn 40 fantasia, 6 pavana, 12 villancico (thánh ca) phổ thơ sonnet Ý được gọi là các  “soneto”. Các tác phẩm viết cho hai hình thức: độc tấu vihuela và hát cùng bè đệm bằng vihuela. Các sáng tác khác nhau về phong cách: từ nhạc đơn điệu giản đơn đến tác phẩm cần chạy điêu luyện. Cuốn sách này thường có những đoạn thay thế dành cho người muốn tránh những đoạn đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện. Có những chỉ dẫn cụ thể như: “ni muy apriessa ni muy a Espacio sino con un compás bien mesurado” có nghĩa là “không quá nhanh cũng không quá chậm, nhưng với một chừng mực vừa phải”.

3 pavana: https://youtu.be/CAnQZ1y1WHE

El cortesano là ấn phẩm cuối cùng của ông (1561) như một bức tranh sống động về cung đình Valencia. Ông được giao nhiệm vụ đảm bảo việc giải trí cho các quý bà ở cung đình, như kể chuyện và hát với vihuela đệm. Luys Milán cũng viết một cuốn sách về các trò chơi cung đình Libro de motes de Damas y Caballeros (Cuốn sách về biệt danh của các quý bà và quý ông) vào năm 1535.

Alonso Mudarra sinh vào khoảng 1510, mất vào 1-4-1580. Mặc dù nơi sinh của ông không được ghi lại chi tiết, nhưng người ta biết rằng ông lớn lên ở Guadalajara, nơi người ta cho rằng ông được học nhạc. Ông chắc hẳn đã đến Ý cùng vua Tây Ban Nha Charles V vào năm 1529 trong gánh hát của Công tước thứ tư xứ Infantado, Inigo lopez De Mendoza, hầu tước xứ Santillana. Khi trở về Tây Ban Nha ông đã trở thành thầy tu. Năm 1546 ông được bổ nhiệm là giáo sĩ ở nhà thờ Seville, nơi ông sống đến cuối đời. Ông chỉ đạo các hoạt động âm nhạc tại nhà thờ. Các tài liệu cho thấy công việc của ông bao gồm thuê nhạc công, mua và lắp ráp một đàn organ mới và phối hợp chặt chẽ với nhà soạn nhạc Francisco Guerrero trong các lễ hội khác nhau. Theo ý nguyện của ông, tài sản của ông được chia cho người nghèo ở thành phố sau khi ông qua đời. 

Các bản nhạc đầu tiên được xuất bản cho guitar 4 dây của Mudarra được in thành tuyển tập ba cuốn Tres libros de musica en cifras para vihuela (Ba tập nhạc có ghi số chỉ dẫn cho vihuela) và xuất bản vào 7-12-1546 ở Seville. 6 tác phẩm cho guitar được giới thiệu cùng 44 tác phẩm cho vihuela, 26 tác phẩm cho guitar và hát và một tác phẩm cho guitar hoặc organ. Một vài bản là sáng tác của ông và một số khác là bản chuyển soạn từ âm nhạc của các nhà soạn nhạc thời Phục hưng khác như Josquin Des Pres, Nicolas Gombert, Adrian Willaert, Antoine de Févin và Pedro Escobar. Các bản fantasia, biến khúc (trong đó có một biến khúc trên chủ đề La Folia), tiento (tương tự fantasia), pavane và galliards là một vài sáng tác đặc trưng trong tuyển tập này. Đặc biệt thú vị là 8 tác phẩm nhiều chương trong cuốn thứ 2, tất cả được sắp xếp bằng âm chủ hoặc chủ điệu. Nhịp độ chậm, vừa và nhanh được chỉ dẫn rất sáng tạo bằng các ký hiệu khác nhau.

Các ca khúc bằng tiếng Latin, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý và bao gồm các romance (buồn thay vua David), concione (ca khúc), villancico (thánh ca) và sonnet (thơ 14 câu). Các tác giả  Tây Ban Nha gồm có:

-          Jorge Manrique (Remember the sleeping soul)

-          Juan Boscan (Claros and fresh rivers)

-          Garcilaso de la Vega

-          Các tác giả khuyết danh khác (If you love the man beloved, Elizabeth, lost of your Faxa, What tears are all this?)

Các tác giả Ý : 

-     Francesco Petrarca (La vita Fugger)

-          Jacopo Sannazaro (O gelosia d'amanti)

Các tác giả Latin: 

 

-          Ovid (Hanc tua Penelope)

-          Horacio (Beatus ille)

-          Virgilio (Sweet Exuviae)

Ngày nay, một số tác phẩm của Alonso Mudarra vẫn phổ biến và bản Fantasia số 10 (theo phong cách đàn harp của Ludovico) của ông là một trong những tác phẩm biểu diễn và ghi âm yêu thích nhất của các guitarist: https://youtu.be/GKW5p3vUmQ0

14-6-19

Trịnh Minh Cường

Đăng trên Tạp chí Âm nhạc số 2-2019

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LỊCH SỬ CỦA THỂ LOẠI GIAO HƯỞNG

 Tổng quan về giao hưởng Một giao hưởng là gì? Đó là một sáng tác cho khí nhạc có thời lượng dài và hầu hết được viết cho dàn nhạc. Với lịch sử kéo dài hơn 300 năm, ngày nay giao hưởng thường được cho là đỉnh cao của khí nhạc cổ điển. Các tên tuổi Beethoven, Brahms, Mozart, Mahler và Bruckner gần như đồng nghĩa với thể loại này và các tác phẩm họ viết cho giao hưởng không có điểm dừng. Thể loại giao hưởng đã đem đến cho các nhà soạn nhạc vĩ đại này một cấu trúc để sáng tác và vươn xa, và nó cho phép họ giải phóng sự sáng tạo của mình trên thế giới thông qua một số tác phẩm âm nhạc vĩ đại nhất đang hiện hữu. Nguồn gốc của giao hưởng có từ trước thời các nhà soạn nhạc này. Tuy nhiên, các nhà soạn nhạc giao hưởng đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà soạn nhạc đã nêu trên. Giao hưởng đầu tiên Những giao hưởng đầu tiên ra đời vào những năm 1730 xung quanh Milan và vùng lân cận vùng Bologna. Trớ trêu thay, giao hưởng này có thể cho thấy phần lớn nguồn gốc của nó dành cho o...

NĂM NHẠC SƯ LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA NHẠC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY

Âm nhạc cổ điển phương Tây có một bề dày lịch sử với nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ đều có những nhạc sĩ lớn với đóng góp quan trọng. Họ là những nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn hay nhà lý luận. Các tác phẩm hay trình độ diễn tấu điêu luyện của họ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc của thính giả cũng như giới chuyên môn. Do đó, nên âm nhạc luôn được làm mới và phát triển không ngừng. Thính giả dễ dàng ghi nhớ tên tuổi những nhà soạn nhạc và nghệ sĩ nhưng ít ai để ý  những người thầy của họ.  Tạp chí âm nhạc BBC đã đề xuất năm người thầy nổi bật nhất lịch sử âm nhạc cổ điển phương Tây. Xin được giới thiệu năm bậc danh sư này cùng các học trò của họ. 1. Simon Sechter (1788-1867) sinh ra ở Friedberg (Frymburk), Bohemia, sau thành một phần của Đế chế Áo. Năm 1804 ông chuyển đến Vienna. Năm 1810, ông bắt đầu dạy piano và hát tại một học viện dành cho học sinh khiếm thị. Năm 1851 Sechter được bổ nhiệm làm giáo sư sáng tác tại Nhạc viện Vienna. S. Sechter có nhiều sinh viên thà...

VÌ SAO GỌI LÀ NHẠC CỔ ĐIỂN?

 Tom Service(BBC)  Nhạc cổ điển là loại nhạc mà dàn nhạc biểu diễn, tứ tấu đàn dây chơi và dàn hợp xướng hát. Nó được phát trên BBC Radio 3 mọi lúc, và nó có trên Mindful Classical Mix mà bạn vừa tải xuống từ BBC Sounds. Nhưng khi BBC bắt đầu một năm chương trình xung quanh Thế kỷ Cổ điển của Chúng ta, Tom Service khám phá một câu hỏi rất đơn giản: nhạc cổ điển là gì? Đây là vấn đề: Tôi không nghĩ thực sự có thứ gọi là nhạc cổ điển.  Đối với một người đã dành phần lớn hai mươi năm qua để viết và nói về nhạc cổ điển, điều đó có vẻ hơi ngớ ngẩn. Nhưng ngay cả những nhà soạn nhạc xác định rõ nhất về "cổ điển" (hãy nghe Bach, Beethoven và Mozart) cũng không biết rằng họ đang viết nhạc cổ điển, vì đơn giản là thuật ngữ đó không tồn tại trong cuộc đời họ. Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là sự thật. Các giá trị, thứ bậc, quy tắc và toàn bộ danh mục "cổ điển" chỉ bắt đầu xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1829. Vì sao? Một sự giải thích có thể là “classicising”( phân loại) mọi th...