Thời
Trung cổ ở châu Âu thường bị gọi là những đêm dài vì chiến tranh liên miên do
khác biệt tôn giáo và thiên tai khốc liệt. Đời sống văn hoá xã hội lại bị kiểm
soát hà khắc bởi thể chế cực đoan như toà án dị giáo. Phong trào Phục hưng như
vầng dương làm sống lại những giá trị văn hoá đã rất phát triển của thời Hy -
La và tiếp tục tiến lên một tầm cao mới. Phong trào Phục hưng diễn ra vào khoảng
giữa hai thế kỷ 15 và 17. Thời kỳ này đã sản sinh ra những vĩ nhân trong mọi
lĩnh vực tác động lớn đến đời sống của con người. Người ta đã khám phá ra hệ Mặt
trời, tìm ra châu Mỹ, biết được trái đất hình cầu, giải phẫu cơ thể người, và
sáng tạo ra rất nhiều tuyệt phẩm nghệ thuật… Với âm nhạc, thành tựu có tác động
nhiều nhất là sự ra đời của máy in. Nhờ có công nghệ in ấn nên các tác phẩm âm
nhạc được phổ biến dễ dàng hơn. Nhờ đó mà tính chuyên nghiệp trong các hoạt động
âm nhạc cũng tiến bộ nhanh chóng. Những thành tựu chính của âm nhạc gồm:
-
Thanh nhạc trong
âm nhạc thế tục phát triển mạnh với thể loại romance(ca khúc nghệ thuật) tạo
thế cân bằng giữa hai dòng âm nhạc thế tục và tôn giáo.
-
Sự phát triển của
âm nhạc nhiều bè đã tạo điều kiện để âm nhạc chủ điệu (có một bè chính) phát
triển.
-
Âm nhạc và văn học
phối hợp với nhau chặt chẽ hơn. Nhờ đó một thể loại rất quan trọng là opera đã
ra đời.
-
Khí nhạc (nhạc viết
cho nhạc cụ) dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào thanh nhạc để thành một mảng riêng
cân đối với thanh nhạc.
-
Bản sắc dân tộc được
các nhà soạn nhạc quan tâm hơn trong sáng tác. Nhờ đó mà hình thành các trường
phái âm nhạc.
-
Bắt đầu xuất hiện
những tổ chức chuyên biểu diễn âm nhạc để phục vụ thính giả mọi tầng lớp. Và đồng
thời cũng xuất hiện những nhà bảo trợ nghệ thuật từ giới quý tộc.
Các
quốc gia có nền âm nhạc phát triển hơn đều nhờ các nhà soạn nhạc. Đó là Meaux de Vitry (1291 - 1361), Guillaume
de Machaut (1300 - 1377) ở Pháp; Francesco Landino (1325 - 1397) ở Ý; John
Dunstable (1390 - 1453) ở Anh; Des Drés Josquin (1440 - 1521) và Heinrich Isaac
(1492 - 1555) ở Nederland (hay Flamand gồm Bỉ, Hà Lan và Đông Bắc Pháp). Đặc biệt
nổi bật là nhà soạn nhạc Ý Giovani Pierluigi da Pelestrina (1525-1594). Ông là
người đã nâng hình thức a capella (hợp xướng không nhạc đệm) lên đỉnh cao và có
ảnh hưởng rất lớn đến âm nhạc các thời kỳ sau. Người ta đã so sánh ông với
Raphael trong hội hoạ.
Với
cây đàn guitar, thời Phục hưng chính là buổi bình minh. Vì trong thời kỳ này đã
xuất hiện và phát triển hai tiền thân của guitar là đàn lute và vihuela. Đầu thế
kỷ 16 xuất hiện cây đàn lute, một nhạc cụ có 4 dây đôi như đàn mandoline bây giờ.
Đàn lute đã nhanh chóng chinh phục người yêu nhạc châu Âu, đặc biệt là giới quý
tộc, nhờ kích thước nhỏ gọn mà lại có khả năng đệm hát tuyệt vời ngoài khả năng
độc tấu. Nhạc cụ khác như viol(tiền thân của violin) tuy nhỏ gọn nhưng không
thể làm được tương tự như lute nếu chỉ với một cây đàn. Đàn phím đệm hát cũng
tuyệt vời nhưng lại quá cồng kềnh. Sẽ càng thấy đàn lute tuyệt vời hơn khi nhảy
múa trên nền nhạc của đàn lute. Âm thanh sôi động của một cây đàn lute khi chơi
nhạc nhảy quả thật không có nhạc cụ nào sánh được.
Tên
tuổi nổi bật gắn với cây đàn lute là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ lute người Anh John Dowland (1563 – 20/2/1626). Người
ta thường nghĩ rằng John Dowland được sinh ra ở London. Tuy nhiên ông đã đề tặng
ca khúc From Silent Night cho “người đồng hương yêu thương của tôi, ông John
Forster, một thương nhân trẻ tuổi ở Dublin, Ireland” cho thấy quê của Dowland
có thể là Ireland. Năm mười bảy tuổi, ông đến Paris, nơi ông được ngài đại sứ
Anh Henry Cobham thuê, và sau đó làm thuê cho ngài Edward Stafford. Dowland cải
đạo sang công giáo trong thời gian ở Pháp. Năm 1584, ông trở về Anh để lập gia
đình. Năm 1588, ông được nghiên cứu sáng tác nhạc tại nhà thờ Christ ở đại học
Oxford và nhận bằng cử nhân âm nhạc ở đó. Năm 1592, ông được chơi đàn phục vụ Nữ
hoàng Elizabeth. Khi hoàng cung dành một vị trí cho một nghệ sĩ lute vào năm
1594, Downland đã không thành công với đơn thỉnh cầu của mình. Ông tuyên bố có
sự bất công vì ông là người công giáo. Thực ra ý kiến này của ông không công bằng
khi đã có các nhạc sĩ công giáo khác như William Byrd làm việc trong hoàng cung.
Năm 1598, John Dowland đã
nhận được mời đến làm việc tại triều đình Vua Christian IV của Đan Mạch, trong
khi đó ông vẫn tiếp tục xuất bản nhạc của mình ở London. Rõ ràng nhà vua Đan Mạch
rất thích nhạc của Dowland khi đã trả lương cho nghệ sĩ lute tới 500 daler một
năm, một mức lương cao nhất trong số những người phục vụ triều đình. Sự ưu ái đặc
biệt này không duy trì được lâu vì Dowland thường nghỉ việc để về Anh lo việc
xuất bản. Ông bị triều đình Đan Mạch sa thải năm 1606. 6 năm sau đó, năm 1612,
ông được hoàng gia Anh bổ nhiệm là một trong những nghệ sĩ lute của Vua James I
năm 1612. Ông ít sáng tác trong thời gian phục vụ hoàng gia Anh. Ngày 20/2/1626, đúng một tháng sau lần nhận
lương cuối cùng từ triều đình, ông qua đời và được chôn cất tại nhà thờ thánh
Ann, Blackfriars, London.
Cảm hứng sáng tác của
John Dowland bắt nguồn từ hình thức hát của người Anh gọi là “hát phối hợp”,
cũng là kiểu nhạc nhảy đương thời. Các xuất phẩm âm nhạc của ông gồm có:
-
Các ca khúc cho đơn ca có lute đệm.
-
Các hợp ca cho nhiều bè có lute đệm.
-
Các tác phẩm hoà tấu cho các viol và
lute.
-
Các tác phẩm độc tấu cho lute.
Có thể cho rằng
tác phẩm nổi tiếng nhất của ông Lachrimae
hay Bảy Giọt lệ đã được viết
trong thời kỳ ông ở Đan Mạch. Tác phẩm này viết cho năm viol cùng lute đệm gồm
7 biến tấu trên sáng tác trước đây của ông - Lachrimæ Pavan. Đó là sáng tác nổi tiếng của
ông trước đó và được coi là một trong những tập nhạc hoà tấu nổi tiếng nhất. Một
bản Pavane phổ biến khác là Lachrymae Antiquae được sử dụng làm chủ đề cho các
biến khúc của nhiều nhà soạn nhạc trong thế kỷ 17.
Luis de
Narváez sinh ra ở Granada, Tây Ban Nha vào khoảng năm 1500. Ông là nhà
soạn nhạc và nghệ sĩ vihuela được đánh giá cao trong thời đại mình. Ngày nay,
ông nổi tiếng với hợp tuyển Los seys libros del delphín (Sáu cuốn sách của cá
heo). Đây là hợp tuyển nhạc phức điệu cho vihuela bao gồm các biến khúc sớm
nhất của lịch sử âm nhạc phương Tây.
Ông xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1526 tại gia
đình Francisco de los Cobos y Molina, quan đại thần của vương quốc Castile dưới
thời vua Tây Ban Nha Charles V. Vị quan này vốn nổi tiếng là một nhà bảo trợ
nghệ thuật. Narváez sống ở Valladolid, kinh đô của Tây Ban Nha khi đó, làm việc
cho vị quan đại thần này. Tại đây năm 1538, ông đã xuất bản tập Los seys
libros del delphín đề tặng nhà bảo trợ của mình. Đến năm 1548, ông cùng
nhà soạn nhạc đàn phím nổi tiếng Antonio de Cabezón được thuê làm nhạc sĩ cho
nhà nguyện hoàng gia của Felipe, nhiếp chính Tây Ban Nha, sau này thành vua
Philip II của Tây Ban Nha. Narváez cũng dạy nhạc cho các ca sĩ trong dàn hợp
xướng của nhà nguyện và chỉ huy dàn hợp xướng. Ông tháp tùng cùng đoàn tuỳ tùng
hoàng gia trong nhiều chuyến du ngoạn. Những tài liệu lịch sử cho thấy ông đã ở
Hà Lan trong mùa đông năm 1549.
Bậc thầy Tây Ban Nha này có
tiếng là nhà soạn nhạc đầu tiên viết cho vihuela phỏng theo phong cách âm nhạc
Ý viết cho đàn lute. Là một nghệ sĩ vihuela, ông được đánh giá cao trong thời
của mình, đặc biệt là khả năng ứng tác. Ông có thể ứng tác một tác phẩm 4 bè mà
ông chưa từng biết. Ông cũng rất nhiệt tình với thanh nhạc phức điệu.
Hợp tuyển Los seys libros del
delphín là di sản âm nhạc quan trọng nhất của Narvaez còn tồn tại. Cách ghi âm
tab cho hợp tuyển này là một biến thể của cách ghi âm tab kiểu Ý. Hai tập đầu
tiên có 14 bản fantasia phức điệu theo phong cách Ý. Đôi khi các motive ngắn đã
được sử dụng với cách dùng ngón tay trái giống hệt nhau, điều này đã phản ánh
những kỹ thuật ông dùng khi chơi ứng tác. Âm nhạc này làm liên tưởng đến tác
phẩm của nghệ sĩ lute Ý Francesco da Milano, người có tác phẩm trong hợp tuyển
của Narvaez.
Tập 3
dành riêng cho các tác phẩm chuyển soạn cho vihuela bao gồm:
·
Các
thánh ca chọn lọc của Josquin des Prez.
·
Ca khúc
nổi tiếng Mille Regretz cũng của Josquin des Prez, tiêu đề riêng của nó
"La canción del Emperador" (Bài hát của Hoàng đế) cho thấy đây hẳn là
ca khúc yêu thích của vua Charles V.
·
Hai ca
khúc của Nicolas Gombert (Một bài được cho là của Jean Courtois)
Các tập 4,5, 6 có nội dung hỗn hợp và điểm nổi bật là tập 6, các
biến khúc (variations hoặc diferencias) đầu tiên trong lịch sử được xuất bản. Nét đặc trưng trong nhạc phẩm của Narváez là bao gồm cả nhạc tôn giáo và thế tục với nhiều kỹ thuật diễn tấu phong phú. Bên cạnh các biến tấu trên giai điệu, tập 6 còn có hai tác phẩm Guardame las vacas và Conde claros – hai tập biến khúc trên nền hoà âm không đổi. Phần còn lại gồm các villancico (thánh ca), romance (tình ca) và tác phẩm a Baxa de contrapunto (Một bè trầm đối vị).
Guardame
las vacas : https://youtu.be/XFis7egw138
Luys Milán hay Luis de Milán sống trong khoảng 1500 - 1561. Ông là người đầu tiên xuất bản âm nhạc cho vihuela gảy bằng ngón tay. Các nhạc phẩm của ông đáng chú ý ở chỗ trong đó có các chỉ dẫn nhịp độ (tempo) đầu tiên trong lịch sử âm nhạc.
Báo in đầu tiên trên bán đảo Iberia được phát hành tại
Valencia vào năm 1473 và chắc chắn công nghệ mới này đã ảnh hưởng đến động lực
của Milán trong việc xuất bản các tác phẩm của ông. Milán chắc hẳn sống cả đời ở
Valencia dù chi tiết trong các tài liệu còn sơ sài. Theo những gì chúng ta biết
được thì ông được triều đình tuyển dụng đến năm 1538. Năm 1535 ông đã xuất bản
một cuốn sách trò chơi với âm nhạc mang tên El juego de mandar (Trò chơi chỉ
huy). Một năm sau, ông xuất bản cuốn thứ hai Libro de música de vihuela de mano
intitulado El maestro (Sách nhạc cho vihuela gảy bằng ngón tay mang tên Bậc thầy)
là cuốn sách âm nhạc quan trọng nhất của ông. Cuốn sách này viết cho Vihuela và
đề tặng Vua John III của Bồ Đào Nha. Cuốn sách có sáu bản thánh ca (theo phong
cách của ca khúc phổ biến) được viết bằng tiếng Bồ Đào Nha. Hai điều trên cho
thấy Luys Milán đã đến thăm đất nước Iberia này.
Trong cuốn Libro de música de vihuela de mano intitulado El maestro,
Luys Milán đã giới thiệu tuyển tập nhạc cho vihuela đầu tiên trong lịch sử. Dường
như tuyển tập này dự kiến dành cho sinh viên vì âm nhạc được sắp xếp tăng dần về
trình độ. Ấn phẩm này có hơn 40 fantasia, 6 pavana, 12 villancico (thánh ca) phổ
thơ sonnet Ý được gọi là các “soneto”. Các
tác phẩm viết cho hai hình thức: độc tấu vihuela và hát cùng bè đệm bằng vihuela.
Các sáng tác khác nhau về phong cách: từ nhạc đơn điệu giản đơn đến tác phẩm cần
chạy điêu luyện. Cuốn sách này thường có những đoạn thay thế dành cho người muốn
tránh những đoạn đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện. Có những chỉ dẫn cụ thể như: “ni
muy apriessa ni muy a Espacio sino con un compás bien mesurado” có nghĩa là “không
quá nhanh cũng không quá chậm, nhưng với một chừng mực vừa phải”.
3 pavana: https://youtu.be/CAnQZ1y1WHE
El cortesano là ấn phẩm cuối cùng của ông (1561) như một bức tranh sống
động về cung đình Valencia. Ông được giao nhiệm vụ đảm bảo việc giải trí cho
các quý bà ở cung đình, như kể chuyện và hát với vihuela đệm. Luys Milán cũng
viết một cuốn sách về các trò chơi cung đình Libro de motes de Damas y
Caballeros (Cuốn sách về biệt danh của các quý bà và quý ông) vào năm 1535.
Alonso
Mudarra sinh vào khoảng 1510, mất vào 1-4-1580. Mặc dù nơi sinh của ông
không được ghi lại chi tiết, nhưng người ta biết rằng ông lớn lên ở Guadalajara,
nơi người ta cho rằng ông được học nhạc. Ông chắc hẳn đã đến Ý cùng vua Tây Ban
Nha Charles V vào năm 1529 trong gánh hát của Công tước thứ tư xứ Infantado,
Inigo lopez De Mendoza, hầu tước xứ Santillana. Khi trở về Tây Ban Nha ông đã
trở thành thầy tu. Năm 1546 ông được bổ nhiệm là giáo sĩ ở nhà thờ Seville, nơi
ông sống đến cuối đời. Ông chỉ đạo các hoạt động âm nhạc tại nhà thờ. Các tài
liệu cho thấy công việc của ông bao gồm thuê nhạc công, mua và lắp ráp một đàn
organ mới và phối hợp chặt chẽ với nhà soạn nhạc Francisco Guerrero trong các
lễ hội khác nhau. Theo ý nguyện của ông, tài sản của ông được chia cho người
nghèo ở thành phố sau khi ông qua đời.
Các bản nhạc đầu tiên được xuất bản cho guitar 4 dây của Mudarra được in
thành tuyển tập ba cuốn Tres libros
de musica en cifras para vihuela (Ba tập nhạc có ghi số chỉ dẫn cho vihuela) và xuất bản vào 7-12-1546 ở Seville. 6 tác phẩm
cho guitar được giới thiệu cùng 44 tác phẩm cho vihuela, 26 tác phẩm cho guitar
và hát và một tác phẩm cho guitar hoặc organ. Một vài bản là sáng tác của ông
và một số khác là bản chuyển soạn từ âm nhạc của các nhà soạn nhạc thời Phục
hưng khác như Josquin Des Pres, Nicolas Gombert, Adrian Willaert, Antoine de
Févin và Pedro Escobar. Các bản fantasia, biến khúc (trong đó có một biến khúc
trên chủ đề La Folia), tiento (tương tự fantasia), pavane và galliards là một
vài sáng tác đặc trưng trong tuyển tập này. Đặc biệt thú vị là 8 tác phẩm nhiều
chương trong cuốn thứ 2, tất cả được sắp xếp bằng âm chủ hoặc chủ điệu. Nhịp độ
chậm, vừa và nhanh được chỉ dẫn rất sáng tạo bằng các ký hiệu khác nhau.
Các ca khúc bằng tiếng Latin,
tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý và bao gồm các romance (buồn thay vua David),
concione (ca khúc), villancico (thánh ca) và sonnet (thơ 14 câu). Các tác giả Tây Ban Nha gồm có:
-
Jorge Manrique (Remember the sleeping soul)
-
Juan Boscan (Claros and fresh rivers)
-
Garcilaso de la Vega
-
Các tác giả khuyết danh khác (If you love the man beloved,
Elizabeth, lost of your Faxa, What tears are all this?)
Các tác
giả Ý :
- Francesco Petrarca (La vita Fugger)
-
Jacopo Sannazaro (O gelosia d'amanti)
Các tác
giả Latin:
-
Ovid (Hanc tua Penelope)
-
Horacio (Beatus ille)
-
Virgilio (Sweet Exuviae)
Ngày nay, một số tác phẩm của Alonso Mudarra vẫn phổ biến và bản Fantasia
số 10 (theo phong cách đàn harp của Ludovico) của ông là một trong những tác phẩm
biểu diễn và ghi âm yêu thích nhất của các guitarist: https://youtu.be/GKW5p3vUmQ0
14-6-19
Trịnh Minh Cường
Đăng trên Tạp chí Âm nhạc số 2-2019
Nhận xét
Đăng nhận xét