Johannes Brahms sinh ngày 7 tháng 5 năm 1833 ở Hamburg trong một gia đình theo đạo Luther. Johannes có một chị Elisabeth (Elise) sinh năm 1831 và một em trai Fritz Friedrich (Fritz) sinh năm 1835. Brahms lớn lên ở Hamburg nhưng sau đó sống ở Düsseldorf và trong vài thập kỷ cuối đời ở Vienna. Ông đi lưu diễn độc tấu piano khắp Áo Đức, thỉnh thoảng cũng chỉ huy.
Brahms học piano từ khi lên 8,
khi lên 11 cao hứng viết một bản sonata cho piano, năm 13 tuổi học lý thuyết sáng tác và đến năm 14 tuổi ra mắt
buổi công diễn đầu tiên khi chỉ huy một dàn hợp xướng nam. Nhạc sĩ trẻ thường
đi biểu diễn ở các quán bar, thậm chí cả nhà thổ để kiếm tiền hỗ trợ bố mẹ vốn
không được dư dả. Năm 1850, Brahms gặp Eduard Remenyi, một nghệ sĩ violin người
Hungary đi tị nạn. Hai người đã kết thân với nhau và Remenyi đã giới thiệu âm
nhạc Di Gan với Brahms. Từ những hiểu biết này mà về sau Brahms đã viết 21 vũ
khúc Hungary. Ba năm sau, 1853, họ cùng nhau đi lưu diễn và Brahms đã gặp nghệ
sĩ violin điêu luyện Joseph Joachim và hai người đã trở thành bạn thân của
nhau. Brahms và Joachim đã cùng nhau ở lại
Gottingen một thời gian. Ở đây Brahms đã ghi lại những câu thơ của học trò mà
sau này là nền tảng cho Academic Festival Overture của ông. Trong cùng thời
gian đó, ông cũng viết piano sonata đầu tiên đầy tham vọng của mình. Các sáng
tác và cách chơi piano của Brahms đã gây ấn tượng mạnh cho Schumann và trong một
bài báo trên tờ Neue Zeitschrift für Musik, nhà phê bình đã ca ngợi ông là
"đại bàng non", "anh đã đến, một chàng trai trẻ từ nôi được các
Ân nhân và Anh hùng đứng gác”. Khi Brahms nghe tin Schumann bị suy nhược thần
kinh, ông vội vã đến Dusseldorf để giúp đỡ bạn mình. Đã có nhiều đồn đoán về
tình cảm của ông dành cho vợ bạn mình Clara Schumann. Dù đúng dù sai ông cũng
không kết hôn đến cuối đời. Vào thời điểm này, ông đã viết những kiệt tác đầu
tiên của mình, bao gồm cả phiên bản đầu tiên của Piano Trio thứ Nhất. Năm 1863,
ở tuổi 30 Brahms đươc bổ nhiệm chân giám đốc của dàn hợp xướng danh tiếng
Vienna Singakademie. Năm sau anh gặp R. Wagner nhưng hai người không thành bạn.
Anh vẫn đi lưu diễn nhiều nơi và dạy piano. Năm 1869, Brahms đến nơi cư trú cuối của mình
– Vienna. Wagner tỏ ra ghen tị và công kích Brahms trên báo chí. Năm 1897
Brahms qua đời vì bệnh ung thư. Lần xuất hiện cuối cùng trước công chúng là buổi
hòa nhạc tác phẩm giao hưởng cuối cùng của ông: Giao hưởng thứ Tư. Vào ngày
tang lễ của ông, tất cả tàu bè ở cảng Hamburg đều hạ cờ xuống giữa cột buồm.
Nói chung Brahms là người bảo thủ, đối thủ không chỉ có
Wagner mà còn có I Tchaikovski , F Liszt. Đã xảy ra cái gọi là Chiến tranh của
các nhà lãng mạn giữa các nhà soạn nhạc bất đồng quan điểm về âm nhạc. Cấu trúc
âm nhạc, giới hạn của hòa âm liên tục(chromatic harmony) và âm nhạc chương
trình(program music) so với âm nhạc tuyệt đối(absolute music) là những vấn đề
tranh cãi chính. Hai phái đối lập hình thành trong những năm 1850. Các thành
viên nổi bật nhất của giới bảo thủ là Johannes Brahms, Joseph Joachim, Clara
Schumann, và Nhạc viện Leipzig do Felix Mendelssohn thành lập. Đối thủ của họ
là phái cấp tiến chủ yếu ở Weimar với các đại diện là Franz Liszt và các thành
viên của Trường phái Đức Mới ( Neudeutsche Schule) và Richard Wagner. Liszt đã gọi
Brahms và những người theo ông là “đảng phái xuất bản sau khi chết”. Cuộc chiến
chủ yếu từ các nhạc sĩ ở Đức và Trung Âu, các nhạc sĩ ở Pháp, Ý và Nga chỉ tham gia một
chút. Các nhà soạn nhạc của cả hai bên đều coi Beethoven là anh hùng nghệ thuật
và tinh thần của họ, phái bảo thủ coi ông là một đỉnh cao không thể vượt qua,
những người cấp tiến coi ông là một khởi đầu mới trong âm nhạc.
Đối với thính giả thì Brahms là một
trong những nhà soạn nhạc được yêu thích nhất. Có những người xếp ông ngang
hàng với Bach và Beethoven khi đưa ra khái niệm nhóm 3B. Thực sự ông thành công
trong hầu hết lĩnh vực sáng tác ông tham gia, có nghĩa là trừ opera ông không
tham gia. Trong đó thành công nhất là lĩnh vực giao hưởng. 4 giao hưởng là sản
lượng thấp trong số các nhà giao hưởng, nhưng cả 4 giao hưởng của ông đều nằm
trong top đầu trong các bình chọn các giao hưởng hay nhất mọi thời đại. Các
concerto của ông cũng vậy: violin concerto, double concerto và 2 piano concerto
của ông thuộc vào nhóm các concerto được yêu thích nhất.
Trịnh Minh Cường
Nhận xét
Đăng nhận xét